Các lễ hội đặc sắc ở Yên Bái

Các lễ hội đặc sắc ở Yên Bái (Cập nhật 04/2024)

Cùng Phượt – Lễ hội ở các miền quê Yên Bái thường diễn ra vào mùa xuân, thu hút đông đảo mọi người tham gia. Gắn liền với lễ hội là các trò chơi truyền thống của các dân tộc phổ biến như­: ném pao, tung còn, chơi đu, đẩy gậy, đua mảng, kéo co, đua ngựa, đánh quay

Để rèn luyện sức khoẻ, sự dẻo dai trong cuộc sống, lao động và sản xuất, nhiều trò chơi dân gian đã được hình thành, phát triển từng bước thành những môn thể thao hấp dẫn. Những trò chơi thể thao thể hiện được sức mạnh và sự khéo léo rõ nhất là bắn nỏ, đua ngựa, đẩy gậy, đi cà kheo, tung còn, ném pao, đánh quay, kéo co. Hiện nay, không chỉ dừng lại ở trò chơi mang tính chất thông thường, các môn này đã được đưa vào thi đấu trong các giải thể thao.

©Bản quyền hình ảnh : Trong bài viết có sử dụng một số hình ảnh được tìm kiếm thông qua công cụ Google Image của các tác giả Hoang Mai và của một số tác giả chưa rõ tên nhằm minh họa rõ hơn cho nội dung bài viết. Bản quyền những hình ảnh này thuộc về tác giả. Chính sách của Cùng Phượt về bản quyền hình ảnh các bạn có thể theo dõi tại đây.

Lễ hội ruộng bậc thang Mù Cang Chải

Ruộng bậc thang Tây Bắc (Ảnh – Hoang Mai)

Từ khi Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng ruộng bậc thang thuộc các xã La Pán Tẩn, Chế Cu Nha, Dế Xu Phình là Di tích danh thắng cấp quốc gia vào năm 2007, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái thường xuyên mở hội lễ hội ruộng bậc thang độc đáo. Lễ hội thường diễn ra vào tháng 9-10, mùa gặt của Mù Cang Chải

Dọc đoạn đường quốc lộ 32 từ Đèo Khau Phạ về thị trấn huyện lỵ, ở đâu bạn cũng có thể chiêm ngưỡng những thửa ruộng bậc thang xếp tầng, xếp lớp, trải rộng khắp các triền đồi, núi cao. Trên lưng chừng núi không chỉ đơn thuần là những thửa ruộng để sản xuất mà còn là những tác phẩm văn hóa kiệt tác mang bản sắc của đồng bào người Mông. Những thửa ruộng bậc thang vào mùa lúa chín như những dải sóng vàng uốn lượn trên lưng chừng đồi núi cao.

Đặc biệt hơn, vào những ngày mây mù bao phủ, sóng lúa, biển mây hòa quyện vào nhau tạo nên khung cảnh không gian kỳ ảo đẹp đến mê hồn. Đây chính là “kỳ quan nhân tạo” mà không phải ở nơi nào trên Trái Đất này có được.

Là một trong những địa danh nổi tiếng của vùng Tây Bắc, ruộng bậc thang Mù Cang Chải từ lâu đã được nhiều bạn biết đến với vẻ đẹp kỳ vĩ do con người tạo nên. Nằm ở độ cao hơn 1.000m so với mặt nước biển; với hơn 2.600ha, ruộng bậc thang ở Mù Cang Chải được hình thành từ nhiều đời nay do tập quán canh tác của người Mông…

Ngay từ khi định cư ở mảnh đất này, đồng bào Mông đã lấy trồng trọt là phương thức canh tác chủ yếu, từ đó nghĩ ra cách khai khẩn ruộng bậc thang. Trước tiên, họ là lựa chọn mảnh đất ưng ý, có độ dốc vừa phải, có nguồn nước, có khả năng tạo mặt bằng, ít sỏi đá. Tiếp theo, họ xác lập quyền khai khẩn bằng cách xếp các cột đá cao hoặc chặt ngọn một số cây gỗ lớn trên mảnh đất đó làm dấu hiệu xác lập và khi đã đánh dấu nghĩa là mảnh đất đã có chủ, không ai được xâm phạm.

Khi đã huy động được lực lượng và có điều kiện thời tiết thuận lợi, việc khai khẩn được tiến hành. Cần cù lao động, sản xuất, đồng bào Mông đã tạo nên những “kiệt tác” trên núi, đồng thời cũng tạo ra đời sống tinh thần vô cùng phong phú.

Lễ hội Đền Mẫu Thác Bà

Đã thành thông lệ, cứ vào ngày 9 tháng giêng âm lịch hàng năm, đông đảo bà con nhân dân cùng du khách thập phương lại nô nức về dự hội Đền Mẫu Thác Bà thuộc thị trấn Thác Bà, huyện Yên Bình tỉnh Yên Bái. Tương truyền từ thời các vua Hùng, có nàng công chúa tên gọi Minh Đạt được cắt cử trông coi vùng sông Chảy Thác Bà, dạy dân khai khẩn đất hoang, trồng lúa, dệt vải. Khi bà mất được nhân dân tôn kính, lập đền thờ phụng tại Thác Bà.

Cũng như nhiều lễ hội khác, lễ hội Đền Mẫu Thác Bà gồm hai phần chính, là phần lễ và phần hội. Phần lễ với những nghi thức truyền thống trang trọng, mở đầu là phần rước kiệu. Phần rước được chia làm ba hướng, hướng thứ nhất là rước kiệu hoa, kiệu võng và kiệu bát cống; hướng thứ hai là rước lễ vật gồm 8 mâm từ hồ xanh lên gồm chè kho, bánh, hoa quả; hướng thứ ba là rước cá từ Hồ Thác Bà vào. Tiếng trống hội xuân rộn rã thúc giục, làm bừng lên không khí nhộn nhịp của cả vùng. Người người tấp nập đội lễ ra đền thành tâm cung kính, gạt bỏ hết mọi điều ác để hướng thiện. Sau phần rước kiệu là lễ tế mẫu, lễ dâng hương kính mẫu, lễ dâng hoa, dâng quả, lễ dâng tửu… Tất cả mọi nghi lễ rước, tế, dâng hương đều nói lên tấm lòng thành kính, biết ơn của dân làng đối với người xưa.

Sau phần lễ nghiêm trang là phần hội sôi nổi và vui nhộn với các trò chơi dân gian như: kéo co, đẩy gậy, chọi gà, ném còn, cờ tướng v.v…Những hình thức sinh hoạt văn hóa mang đậm màu sắc dân gian đã tạo cho ngày hội của nhân dân vùng hạ lưu sông Chảy thêm sống động và thực sự là nơi giao lưu văn hóa giữa các dân tộc Kinh, Tày, Nùng trong vùng. Các trò chơi trong hội không chỉ thể hiện sự khéo léo, tài trí và thông minh mà còn toát lên tính tập thể, tinh thần cộng đồng cao.

Lễ hội múa Mỡi dân tộc Mường

Lễ hội múa Mỡi dân tộc Mường được tổ chức vào dịp đầu năm mới (mùng 3 tháng Chạp), tại thôn Ao Luông II, xã Sơn A, huyện Văn Chấn. Lễ hội là để con cháu cảm ơn tổ tiên một năm qua đã phù hộ, che chở cho con cháu làm ăn phát đạt, gặp nhiều may mắn, mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi, thóc lúa đầy bồ, con cháu mạnh khoẻ…

Theo một số người già trong làng nơi đây kể lại, lễ hội múa Mỡi đã có từ rất lâu rồi, không ai nhớ rõ là từ khi nào. Chỉ biết rằng hàng năm, cứ vào dịp đầu năm mới (mùng 3 tháng Chạp), mọi người tụ tập nhau lại để múa mời tổ tiên xuống trần gian vui chơi, nhảy múa cùng con cháu.

Điệu múa này được diễn ra tại nhà ông Mo lớn, Mo chủ (cầm thần) là ông Mo có uy tín nhất trong làng. Để chuận bị cho sự kiện này, trước nhà ông Mo sẽ dựng một cây nêu được trang trí rất nhiều họa tiết mang ý nghĩa tâm linh.

Lễ vật trong lễ hội múa Mỡi gồm có: Mâm lễ cúng (tiếng dân tộc Mường gọi là “Pán Cạo”) gồm có các  lễ vật: 1 đầu lợn, bánh chay (pèng chay), bánh trưng (pèng chưng), bánh ống (pẻng ống), cơm, xôi, rau chay, măng, lá đu đủ, 1 nải chuối, rượu. Và một lễ vật có ý nghĩa rất quan trọng trong lễ hội này là cây bông, tiếng Mường gọi là “Cần Boồng”.

Bắt đầu vào lễ, thầy Mo mặc quần áo truyền thống, đầu quấn khăn Mơi, tay cầm quạt, ngồi giữa một chiếc chiếu trải ở khu vực trung tâm. Thầy Mo thay mặt tất cả mọi người tham gia trong lễ hội đứng trước mâm cúng khấn, lời khấn đại ý “Hôm nay ngày lành tháng tốt, bản mường tổ chức lễ hội múa Mơi, cảm ơn thần tiên, tổ tiên trong năm qua đã phù hộ cho con cháu một năm làm ăn gặp nhiều may mắn, mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi…”. Điệu múa này của thầy mo với đại ý là thần tiên đã nhập vào thầy để vui chơi cùng con cháu. Khi đã nhập vào, thầy mo sẽ múa điệu quay tròn lắc lư đầu, chân rung mạnh cảm giác như sắp bật khỏi mặt đất, thầy vừa múa nhập đồng miệng vừa lẩm nhẩm điệu hát.

Sau khi thầy mo nhập đồng xong mọi người bắt đầu vào màn múa đầu tiên theo nhịp gõ trống, chiêng, điệu múa trầu (hay còn gọi là múa nàng tiên). Điệu múa này là thầy mo mời các nàng tiên trên trời xuống để dự lễ hội múa vui cùng bà con dân bản. Tham gia điệu múa này chủ yếu là sáu nghệ nhân mặc trang phục truyền thống, khăn Mơi vắt qua vai, khi vào điệu múa khăn Mỡi sẽ được chuyển từ vai xuống tay thành đạo cụ múa.

Đạo cụ dùng trong điệu múa là những thanh nứa dài, gõ lên một tấm gỗ theo nhịp 3-4 kết hợp với âm thanh của trống và chiêng. Ở điệu này, người múa phải nhìn nhau múa đều theo nhạc. Điệu múa này diễn ra trong khoảng 15- 20 phút.

Điều đặc biệt là tất cả mọi người có thể cùng tham gia múa với những động tác đơn giản, không phức tạp. Chân bước theo nhịp 2-4, chân vắt sang phải thì tay cầm khăn mơi vung sang trái và ngược lại. Mọi người cùng say sưa múa, điệu múa cứ lặp đi lặp lại, từ vị trí ban đầu di chuyển theo vòng tròn rồi lại xoay lại.

Tiếp theo là điệu múa “Mùa Cuổi” (múa Cuội) hay Thần tiên xuống chơi. Đây là màn múa cao trào nhất, điệu múa mang ý nghĩa rằng thần tiên ở trên trời đã nghe thấy lời cúng khấn của con cháu nên đã nhập đồng xuống trần gian cùng vui chơi. Thầy mo lúc này vừa nhảy múa cùng mọi người vừa ra hiệu cho tất cả cùng nhau vui chơi, cùng tham gia vào màn múa. Trong điệu múa này, có một phần rất đặc biệt đó là phần “phán bông” của thầy Mo, các cô gái rất náo nức đón đợi phần này bởi qua lời phán của Thầy Mo một trong số các cô gái xinh đẹp, đảm đang, khéo léo tham gia và công việc chuẩn bị cây bông sẽ được thầy chọn và phán là người khéo tay nhất đã làm ra bông hoa đẹp nhất.

Sau một hồi múa vui, thầy Mo sẽ ra hiệu cho mọi người chuyển sang điệu múa mô tả những trò chơi thể thao, các trò chơi ở đây chủ yếu là ném còn, đánh đu, kéo co… Xong nhịp múa này thì Cuội nhập vào thầy, lúc này thầy Mo đứng bật dậy múa các động tác lạ khác hẳn với các động tác đã múa trước, có sự trêu ghẹo các cô gái xinh của bản và bị các cô gái đuổi về trời. Kết thúc, tất cả mọi người quây quần bên nhau, chúc nhau chén rượu và hẹn năm sau thần tiên sẽ quay trở lại vui cùng bản Mường.

Có thể nói, Múa Mỡi là lễ hội truyền thống mang ý nghĩa rất lớn trong đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào dân tộc Mường nơi đây. Những khát vọng và ước mơ về cuộc sống tự do vươn tới ấm no, hạnh phúc và ca ngợi tình yêu đôi lứa đã được người Mường gửi gắm qua lễ hội.

Lễ hội đình làng Dọc

Lễ hội đình làng Dọc là lễ hội dân gian mang đậm sắc thái của người Kinh và người Tày cổ. Đặc biệt, lễ hội thường được tổ chức 2 kỳ trong năm, vào mồng 3 mồng 4 tháng Giêng âm lịch (gọi là lễ Hạ điền) và 13, 14 tháng 7 âm lịch (lễ hội cầu Thần Nông). Đây là dịp nhân dân huyện Trấn Yên, Yên Bái cầu cho mạ xanh lúa tốt, cuộc sống an lành, nhà nhà no ấm.

Đình làng Dọc nằm ở làng Dọc, xã Việt Hồng, huyện Trấn Yên, Yên Bái. Đình được xây dựng từ thế kỷ 19 và được ban sắc phong đời vua Khải Định gồm 5 gian 2 trái, kiến trúc chữ “đinh”. Gian trước được làm theo kiến trúc cúng thờ. Hiên trái phía đông được chọn làm cửa chính vào đình. Đình nhìn ra suối nước trong xanh có mỏ nước ngầm chảy bốn mùa, tương truyền đó là long mạch của đình và trên mỏ nước là phiến đá lớn nơi còn lưu giữ vết chân ngựa của người xưa đến vùng đất này khai khẩn. Sân trước đình hẹp, kề sát vực suối và mỏ nước ngầm. Trái đình kề dải đồi dốc thấp được chọn làm nơi lên xuống, đón khách chiêm bái. Ngoài ra, kiến trúc của đình cũng có sự giao thoa giữa lan can của người Tày và kiểu dáng nhà đất của người Kinh.
Hằng năm, lễ hội đình làng Dọc được tổ chức vào lễ tháng Giêng và lễ tháng 7. Lễ hội có sự pha trộn giữa nghi thức tế lễ của người Kinh với các điệu múa xòe then của dân tộc Tày. Phần lễ cúng Thành hoàng, tổ tiên, các bậc tiền bối có công khai khẩn vùng đất này gồm 4 mâm cỗ chay và 27 mâm cỗ mặn. Riêng lễ tháng 7 còn có thêm thịt trâu hay thịt dê. Phần lễ có sự tham gia của Đảng ủy, chính quyền xã được tổ chức trang nghiêm, tiết kiệm, không lợi dụng mê tín dị đoan. Phần hội cũng được tổ chức rất đa dạng, phong phú với các trò chơi truyền thống của các dân tộc miền núi tỉnh Yên Bái như: ném còn, kéo co, đẩy gậy…

Trải qua thăng trầm của lịch sử và sự tàn phá của chiến tranh, lễ hội đình làng Dọc đã đi vào tiềm thức mỗi người dân, minh chứng cho sức sống mãnh liệt của một lễ hội mang đậm giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc, đậm nét tâm linh của đồng bào các dân tộc Trấn Yên, Yên Bái. Đây cũng là dịp thắt chặt tình đoàn kết giữa các dân tộc Tày, Kinh, Thái, thắt chặt tình làng nghĩa xóm, và tưởng nhớ đến tổ tiên ông cha đã có công khai khẩn ra mảnh đất này.

Lễ cấp sắc của người Dao đỏ

Cấp sắc là một nghi lễ quan trọng không thể thiếu của người Dao đỏ để công nhận sự trưởng thành của một người đàn ông, một người phụ nữ. Cùng với nhiều người dân ở tỉnh Yên Bái chào đón năm mới, đồng bào Dao đỏ xã Phúc Lợi, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái tổ chức nghi lễ cấp sắc.

Trong lễ này, sau bước báo cáo tổ tiên của các thầy cúng, tiếng trống chiêng của lễ cấp sắc đã vang lên để báo hiệu buổi lễ cấp sắc của gia đình đã bắt đầu. Các thầy cúng và các cặp vợ chồng là con cái trong gia đình chào hỏi nhau trước bàn thờ tổ tiên để bắt đầu các thủ tục của lễ.

Theo truyền thống của người Dao đỏ, một lễ cấp sắc có nhiều bậc: 3đèn, 7 đèn, 12 đèn. Với lễ cấp sắc được tổ chức theo bậc 7 đèn trong thời gian 3 ngày, 3 đêm. Các nghi lễ chính trong lễ cấp sắc này gồm lễ trình diện, gia chủ mổ lợn để tế lễ tổ tiên. Các thầy cúng đánh trống mời tổ tiên về dự, báo cáo tổ tiên biết lý do của buổi lễ.

Sau một hồi các thầy khấn làm thủ tục, xin âm dương, thần linh, người được cấp sắc sẽ chính thức được đặt tên âm, được công nhận là người đã trường thành, được cả cộng đồng công nhận đủ uy tín để đảm đương những công việc lớn của gia đình và bản làng. Trong ngày đầu tiên của lễ cấp sắc, các cặp con cái trong gia đình được ăn một bữa cơm có đầy đủ rượu thịt, sau đó phải tắm rửa sạch sẽ để được mặc lễ phục mới của dân tộc và thực hiện ăn cơm chay đến hết lễ mới thôi.

Cấp sắc là một nghi lễ quan trọng không thể thiếu của người Dao đỏ để công nhận sự trưởng thành của một người đàn ông, một người phụ nữ. Đây cũng là một nghi lễ để cầu cuộc sống may mắn bình an, răn dạy con em đồng bào Dao đỏ phải biết hiếu thảo với ông bà cha mẹ, người thân.

Lễ hội “Bung Lổ” của người Dao Họ

Lễ hội “Bung Lổ”, hay còn gọi lễ hội Cầu mưa truyền thống của người Dao Họ (Dao quần trắng) xã Đông An, huyện Văn Yên mang đậm giá trị văn hóa truyền thống độc đáo, làm nên bản sắc văn hóa đặc sắc của người Dao Họ.

Dân tộc Dao từ xa xưa sống chủ yếu dựa vào ruộng, nương, tự cung tự cấp với phương thức canh tác cổ truyền dựa vào tự nhiên là chính. Trước đây, thời tiết hạn hán kéo dài, mùa màng thất thu từ 3 đến 5 năm, người Dao Họ trong xã lại họp nhau lại tổ chức Lễ hội “Bung Lổ”. Họ cầu trời đất, Ngọc Hoàng, Thiên Lôi và các đấng thần linh, tổ tiên, ông bà phù hộ cho dân làng một năm mới mưa thuận, gió hòa, làm ăn thuận lợi, mùa màng bội thu, thóc lợn đầy nhà, gà lợn đầy sân. Lễ hội Cầu mưa – “Bung Lổ” có qui mô toàn xã, do đó việc tổ chức được bàn bạc, thống nhất trong toàn xã.

Sau khi thống nhất tổ chức lễ hội, dân làng quyết định chọn và tổ chức tại một gia đình trong xã. Gia đình được chọn phải là nhà có uy tín trong làng và trong nhà cũng có người làm “thầy đạo” hoặc “thầy múa”. Chủ nhà phải là người am hiểu về lễ hội và có kinh nghiệm trong tổ chức lễ hội. Thông thường lễ hội “Bung Lổ” được tổ chức khoảng từ ngày 5 đến 15 tháng 5 Âm lịch. Khác với các lễ hội khác, lễ hội này, thầy múa giữ vai trò chủ đạo trong tiến trình của lễ hội.

Trong lễ hội, các lễ vật và dụng cụ liên quan đến nghi lễ như: lợn, gà, rượu, gạo, hương, giấy bản màu… được chủ nhà lo liệu. Lễ vật cần thiết trên bàn thờ chỉ là mâm cúng đơn giản, các lễ vật chỉ mang tính tượng trưng, ý tưởng. Ngoài ra còn sử dụng thêm một số dụng cụ khác như: lán cúng “Màn giù”, mâm cúng, mặt nạ, cờ đuôi rồng, thanh la, đao, kiếm gỗ…

Vào khoảng giờ Thìn ngày thứ nhất của lễ “Bung Lổ”, thầy Tam nguyên cùng đồ đệ đánh chiêng, gõ trống múa nghi lễ tiến vào ngõ chủ nhà làm lễ. Đi đầu là một thầy Tam nguyên mặc áo đỏ, tay cầm đao gỗ; một thầy phụ mặc áo vàng, tay cầm kiếm gỗ vừa đi vừa múa theo điệu mở đường.

Tiếp theo là hai người múa “vạn pù” cầm dải vải có tua múa theo điệu “trừ tà”. Người đeo mặt nạ là ông “sán cô” tượng trưng cho người khai thiên lập địa, múa các điệu mang tính chất vui hoặc mang tính phồn thực làm động tác giao lưu với đất trời. Đi giữa là một thầy cầm sách và kiếm phép, cái lanh, “lệnh bài”, theo sau là một vài học trò. Đến gần khu vực lán cúng, thầy làm lễ xua đuổi tà ma lấy lán làm lễ cầu mưa. Tiếp theo là màn cúng “Thào Phanh” (cúng, múa  mời tổ tiên). Màn cúng này được tiến hành trong nhà, ở gian chính giữa có đặt bàn thờ.

Mâm cúng đơn giản, chỉ có mấy thẻ hương, nước chè, chén. Toàn bộ sớ được thầy viết trong 6 ngày sẽ được để lên bàn thờ trong suốt quá trình diễn ra nghi lễ. Nội dung của màn cúng là báo với thần công, thổ địa, tam thanh, tam nguyên hôm nay gia chủ tiến hành lễ hội cầu mưa. Mỗi đoạn cúng khoảng 2 tiếng rồi chuyển sang múa.

Đến cuối màn cúng là giai đoạn thăng hoa và hóa phép của thầy cúng, biến hóa ngọn nến trong mâm thành những viên ngọc có các màu xanh, đỏ, trắng khác nhau và tặng gia chủ. Những viên ngọc này chỉ là hình ảnh tượng trưng, được những người tham gia trong lễ hội tưởng tượng ra. Gia đình nào tổ chức lễ hội cầu mưa mà thầy hóa phép thành ngọc và được tặng viên ngọc đó thì năm đó không chỉ riêng gia đình này mà cả dân làng được phù hộ làm ăn phát đạt, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt bội thu.

Màn cúng thứ 3 là cúng vào lán (Pẹa Tàn). Bắt đầu vào màn cúng, cả thầy đạo và thầy múa cùng làm thủ tục cúng tế. Nội dung bài cúng vẫn là báo cáo và mời thần linh, tổ tiên về dự lễ cầu mưa và công nhận, phù hộ cho con cháu mùa màng tươi tốt, mưa thuận gió hòa, nhà nhà no ấm. Ban đêm lại diễn ra màn múa cao trào nhất của lễ hội Cầu mưa. Các thầy dùng gậy, kiếm, đao để múa, mặt nạ không được dùng múa trong màn này. Màn cũng này có điệu múa gà độc đáo. Gà ở đây là gà thật để múa và dâng lễ.

Mỗi vị thần tới dự đều được dâng cúng lễ một con gà. Những con gà này đều do các thầy cầm múa. Các thầy phụ lễ cầm gà múa khắp lán thờ nhằm nhặt hết xấu xa. Đội hình múa theo hình vòng tròn, mỗi vòng múa động tác khác nhau như múa dứ mổ, múa để gà trên đầu gối nhảy lò cò, múa cầm gà ngang lưng, múa dâng gà lên cao, mỗi động tác múa ba vòng. Kết thúc múa gà là điệu trống đổ hồi chín tiếng, tượng trưng gà vỗ cánh bay cao, bay xa, mang xấu xa đổ ra sông, ra biển.

Màn cúng có ý nghĩa quan trọng nhất trong lễ hội là cúng lấy dòng làm nước, đánh dấu sự thành công của lễ hội. Khi hai thầy ngồi trên đài, ở phía dưới bà con dân bản sẽ lấy cỏ, cây đốt thành ngọn lửa. Hành động có ngụ ý hăm dọa, nếu không lấy được con dòng về làm nước sẽ tiếp tục đốt lửa thiêu cháy con dòng.

Màn này diễn ra trong hai tiếng, thường thì sau khoảng thời gian đó sẽ có mưa thật. Nhưng đợi mãi trời không mưa, họ làm một dòng nước giả tưới đều khắp giống như có mưa tới. Khi có mưa, tất cả mọi người cùng hô to “Có mưa rồi”. Như vậy có nghĩa là Ngọc Hoàng đã nghe thấy lời cầu khấn của thần dân dưới hạ giới, sai thiên lôi tạo mưa cứu giúp dân bản. Ơn Ngọc Hoàng, thần linh, tổ tiên phù hộ cho mưa xuống, gia chủ mổ lợn, gà làm lễ vật tạ ơn. Một con lợn được mổ ra chia làm nhiều phần, làm lễ cúng, khấn dâng lễ vật tạ ơn đến từng vị.

Lễ hội đền Nhược Sơn

Lễ hội đền Nhược Sơn được diễn ra vào ngày 20/9 âm lịch hàng năm, tại xã Châu Quế Hạ, huyện Văn Yên. Đông đảo bà con và du khách thập phương dâng hương tại đền để tưởng nhớ công lao của Hà Chương và cầu cho cuộc sống được ấm no hạnh phúc.

Đền Nhược Sơn thuộc địa phận thôn Ngọc Châu xã Châu Quế Hạ, đền này thờ ngài Hà Khắc Chương, một nhân võ tướng thời Trần có công đóng góp to lớn trong việc trấn giữ vùng biên cương phía bắc, trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần hai, đã đuổi quân nguyên từ Phú Thọ theo đường Sông hồng lên Yên Bái, tới Châu Quế Thổ tức Châu Quế Hạ ngày nay, Hà Khắc Chương chiêu mộ thêm thổ binh địa phương tiếp tục truy kích địch, đóng bè mảng mang ra cắm chốt tại cử Ngòi Thác Nhược, để phục kích quân địch, sau một tuần quân địch lọt vào trận địa mai phục. Quân ta từ mọi hướng xông ra phá tan quân địch. Trong lúc quyết chiến Hà khắc Chương bị thương nặng và chết. Thi hài của  Ông được đưa sang sông chôn cất tại cửa thác Nhược Sơn.

Đền Nhược Sơn quay mặt ra hướng Bắc, có hình thể không đều, kết cấu theo kiểu chữ đinh, trên mặt bằng tổng thể được chia làm hai phần, phần kiến trúc chính và phần kiến trúc phụ, với diện tích mặt bằng là 191,44 m vuông. Trong đền có trên 10 di vật gồm chuông đồng, các ô chữ, tượng Hà Chương được đúc bằng đồng cao 28,5cm rộng 9 cm, nặng 67 kg, bát nhang.

Lễ Tằng Cẩu của người Thái Đen

Một tục lệ không thể thiếu của các cô gái Thái Đen Mường Lò Văn Chấn, Nghĩa Lộ (Yên Bái) trước khi về nhà chồng, phải tiến hành nghi Lễ Tằng Cẩu để rũ đi những vẩn đục của quá khứ, được nhẹ nhàng, thanh sạch, bước vào một cuộc sống mới.

Cô dâu được búi tóc ngược lên đỉnh đầu trong lễ Tằng Cẩu, để thông báo cho mọi người biết mình đã có chồng. Lễ Tằng cẩu được thực hiện theo từng bước rất cụ thể, chặt chẽ và độc đáo. Lễ vật nhà trai chuẩn bị cho cô dâu gồm: 1 sải khăn piêu, khít, đôi vòng tay và hoa tai bạc, nhẫn vàng hoặc bạc, trâm cài tóc, chiếc gương nhỏ, chiếc lược sừng và 1 lọn độn tóc đem sang nhà gái tặng cô dâu.

Trong ngày làm lễ Tằng cẩu, nhà trai cử một đoàn sang nhà gái gồm những thiếu nữ trẻ đẹp và các thiếu phụ khỏe mạnh, tháo vát, am hiểu sâu sắc phong tục, tập quán và thông thạo động tác búi tóc ngược cho cô dâu mới. Phía nhà gái cũng có số người tương ứng, trong đó có hai thiếu nữ làm phù dâu, thường là bạn thân của cô dâu.

Các bước tiến hành lễ, trước tiên là phần gội đầu cho cô dâu, hai cô gái phù dâu sẽ giúp cô dâu xoã tóc và gội đầu bằng Nặm Khảu má (nước ngâm gạo nếp) đựng sẵn trong ống tre nứa cùng với nước đun lá bưởi, lá xả, tre ngà, hương nhu, long não. Bởi người Thái Đen tâm niêm dưới làn nước trong mát của dòng suối, nước suối sẽ cuốn trôi đi tất cả những gì mòn cũ của ngày quá khứ và để được nhẹ nhàng, thanh sạch bước qua một cuộc sống mới. Sau khi, gội đầu xong, cô dâu sẽ vấn tóc quanh đầu rồi cùng chúng bạn trở về bản.
Từ chân cầu thang, cô được đón rước và bước chậm rãi từng bậc lên nhà sàn. Đến Tang chan (ngoài sàn) cô ngồi vào giữa một hàng ghế mây, hướng về phía mặt trời mọc. Hai thiếu nữ phù dâu cùng phụ nâng khay đựng đồ trang sức do nhà trai mang sang.

Tiếp đó, Nai cẩu (người được chọn để Tằng cẩu cho cô dâu) đứng ở phía sau lưng cô, nhẹ nhàng chải tóc rồi dùng hai tay vuốt ngược tóc từ phía sau gáy lên kèm theo lọn tóc độn và búi cuốn chặt lại từ trái sang phải hoặc ngược lại. Khi búi tóc đã hoàn chỉnh. Nai cẩu khẽ nâng chiếc trâm bằng bạc xuyên búi tóc để giữ cho cẩu không thể xổ rối tung và chiếc trâm bạc xinh xắn nổi bật trên nền đen óng mượt của búi tóc cô dâu mới. Khi lễ Tằng Cẩu xong, Nai cẩu khẽ hát những lời dặn dò yêu thương và chúc mừng hạnh phúc cho tình yêu đôi lứa

“Mái tóc dài, chải cho mượt
Búi ngược lên thành “Tằng cẩu”
Từ nay về sau, người đã có chồng
Nước không đổi dòng
Lòng không đổi hướng, con ơi”.

Lễ Tằng cẩu được người Thái đen coi trọng, bởi nó để lại dấu ấn quan trọng trong suốt cả cuộc đời người phụ nữ dân tộc này. Dân tộc Thái có vốn văn học cổ truyền quý báu với kho tàng thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện thơ, ca dao…cùng nhiều điệu múa (khắp) độc đáo: xoè Thái, múa sạp. Và một nét văn hóa độc đáo, làm nên nét riêng có của núi rừng Tây Bắc chính là Lễ Tằng Cẩu của người Thái Đen.

Lễ hội Lồng Tồng của người Tày ở Kiến Thành

Với người Tày ở xã Kiên Thành, huyện Trấn Yên (Yên Bái), hội Lồng Tồng (hay lễ hội cầu mùa) chính là một trong những lễ hội truyền thống đặc sắc lớn nhất, vui nhất của dân tộc Tày được tổ chức trong dịp đầu xuân năm mới. Lễ hội được tổ chức vào đúng ngày rằm tháng Giêng nhằm gửi gắm ước mong của dân làng, cầu cho mưa thuận gió hòa, vạn vật sinh sôi nảy nở, người người ấm no và hạnh phúc.

Cũng giống như các lễ hội khác, hội Lồng Tồng của người Tày ở Kiên Thành được chia làm hai phần, là phần lễ và phần hội.

Phần lễ với những nghi thức truyền thống trang trọng, mở đầu là phần rước hoa quả, cỗ bánh. Sau phần rước là lễ cúng Thành hoàng bản thổ, thần núi, thần suối: Núi Khau Raáo ở phía Tây, núi Khau Thú ở phía Bắc, núi Khau Cuốm ở phía Nam và miếu Bà Chúa ở phía Đông cầu cho mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, cầu cho chim muông, sâu bọ không phá mùa màng, dân làng khoẻ mạnh, đời sống của nhân dân được ấm no.
Theo tục truyền từ xưa, lễ cúng Thành hoàng bản thổ của bản Roòng Raáo được nhân dân dâng lên 6 cỗ bánh, mỗi cỗ bánh gồm có 6 loại bánh là bánh uôi, bánh bìa, bánh phong trú, bánh tẻ, bánh trà lam, bánh nổ và một cây hoa 12 tầng tượng trưng cho 12 tháng trong năm đơm hoa kết trái. Thân cây được làm bằng cây găng gai, những bông hoa làm bằng cây dâu, những vòng hoa tròn được cắm vào cành găng thành cành hoa. Mỗi đầu cành hoa được treo một quả khế tượng trưng cho những hạt lúa mẩy nặng bông. Mỗi cỗ bánh kèm theo 7 mâm cỗ là những món ẩm thực được chế biến bằng thịt lợn, thịt gà và xôi nếp. Đi cùng với mâm cỗ bánh là cờ thần, trống, chiêng… rộn rã làm bừng lên không khí nhộn nhịp của cả vùng.

Xen với phần lễ, các nghệ nhân, các già làng trưởng bản cùng nhân dân các dân tộc xã Kiên Thành cùng nhau trình diễn màn đồng diễn 6 điệu dậm cổ gồm: dậm chéo rứa (múa chèo thuyền), dậm đàn tính, dậm víi (múa quạt), dậm đáp (múa kiếm), dậm teo kéo, dậm quét sân rồng. Các điệu múa thể hiện sự phối  hợp nhịp nhàng, sự khéo léo của những đôi bàn tay con người và tinh thần thượng võ của dân tộc.
Sau phần lễ là phần hội sôi nổi và vui nhộn với sự tham gia của hàng nghìn người dân trong xã và khách thập phương với các trò chơi dân gian như: bắn nỏ, đánh yến, đẩy gậy, ném còn… Tất cả các trò chơi trong hội đã thể hiện sự gần gũi và tinh thần cộng động cao của những người tham gia. Những hình thức sinh hoạt mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc đã thực sự là nơi giao lưu giữa các dân tộc Tày, Mông, Kinh và Dao trong vùng.

Lễ hội Lồng Tồng là nét sinh hoạt cộng đồng đặc sắc, chứa đựng nhiều giá trị nhân văn, là nơi tôn vinh văn hóa, phản ánh tâm tư nguyện vọng người Tày với mong ước cả năm được mùa, khoẻ mạnh và một năm mới nhiều tốt lành.

Lễ hội Hoa Ban – Mường Lò

Vùng Mường Lò tỉnh Yên Bái là nơi tập trung đông đồng bào dân tộc Thái sinh sống và có nhiều phong tục, lễ hội, các tục cúng giỗ đặc sắc. Bên cạnh những lễ hội như: Rằm tháng Giêng, Tết Síp xí, Xên bản, Xên Mường…, lễ hội Hoa ban là một hoạt động văn hóa khá tiêu biểu của vùng đất và cuộc sống tinh thần của người Thái Mường Lò. Hội Hoa ban là ngày vui của họ hàng, của bản, mường và là dịp cho trai, gái gặp gỡ, hò hẹn. Cứ đến ngày 5/2 âm lịch hàng năm, lễ hội Hoa ban được tổ chức. Địa điểm tổ chức thường là ở hang Thẳm Lé.

Lễ hội Hoa ban hàm chứa ý nghĩa cầu phồn thực của cư dân nông nghiệp miền núi, với tâm nguyện thỉnh bái “Then” – vị thần tối cao trong hàng ngũ thánh thần theo quan niệm của người Thái; thỉnh bái “Nàng Ban” – một nữ nhân vật huyền thoại biểu thị cho sự trinh trắng của thiếu nữ Thái và tình yêu đôi lứa thủy chung; thỉnh bái ma trời, ma đường, ma núi, ma sông… phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, vạn vật đơm hoa, kết trái, cho lứa đôi hạnh phúc và cuộc sống của dân bản yên vui.

Truyền thuyết của người Thái kể rằng: nàng Ban là một cô gái xinh đẹp nhưng bị bệnh đậu mùa, nàng không lấy chồng mà lên hang Thẳm Lé (nay thuộc xã Sơn Thịnh, huyện Văn Chấn) sinh sống. Cuối cùng, nàng kiệt sức ở đó. Nơi nàng nằm xuống sau đó mọc lên một cây hoa mang búp trắng như búp tay người con gái và chẳng bao lâu, loài hoa ấy mọc lan ra khắp vùng Tây Bắc. Hằng năm mỗi độ xuân về, hoa nở trắng núi rừng và người ta đặt tên loài hoa đó là hoa ban.

Lễ vật trong nghi lễ là thịt lợn. Người Thái quan niệm lợn là con vật thông minh, có thể làm trung gian giao tiếp với các thần linh để thỉnh cầu những ước nguyện của dân bản; đồ lễ gồm có: đầu, đuôi, bốn chân, xương thịt, lục phủ, ngũ tạng, mỗi thứ một gói và trong số lễ vật để dâng tế thì rượu là đồ lễ không thể thiếu được.
Lễ hội gồm hai phần: phần lễ để cúng thần linh, phần hội để tạo nên những tiếng cười sảng khoái nhằm giáo dục con người vươn tới cái đẹp. Toàn bộ phần nghi lễ được thực hiện ở ngoài cửa hang, sau đó thầy mo vái “Then” xin mở cửa hang thì phần hội lúc đó mới diễn ra cả bên trong và bên ngoài hang.

Sau lễ cúng, bà con dân bản được vào hang dự tiếp phần hội. Nội dung của phần hội chủ yếu là khắp giao duyên theo điệu han nê. Sau đó là các trò chơi hái hoa, múa xòe và ném còn. Các chàng trai giúp các cô gái hái những bông hoa trắng muốt đem về nhà. Hoa ban còn là món ăn độc đáo trong văn hóa ẩm thực của dân tộc Thái. Món hoa ban nấu với gạo nếp thành xôi cho hương vị đậm đà, ngào ngạt hương thơm. Khi hoàng hôn buông cũng là lúc kết thúc các trò chơi trong lễ hội. Các chàng trai, cô gái vừa đi vừa nói những lời chia tay nhau đầy lưu luyến, hẹn đến mùa xuân mới, khi ban nở trắng đồi sẽ lại gặp nhau.

Lễ hội Xên Mường của đồng bào Thái Mường Lò

Lễ hội Xên Mường (cúng Mường) là một trong những lễ hội lớn trong năm của người Thái nhằm tưởng nhớ đến các vị thần linh đã khai sáng ra mường, (cách gọi tên vùng đất nơi người Thái đang sinh sống), cầu mong cho người Thái được ấm no, hạnh phúc. Lễ hội này diễn ra giống nhau ở mọi vùng, nhưng mỗi mường lại chọn địa điểm, cách thức tiến hành và một số nghi lễ khác nhau. Người Thái Tây Bắc thường tổ chức lễ hội này ở đầu nguồn sông suối, nơi cung cấp nước cho toàn mường; người Thái đen ở Mường Lò (Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái) lại tổ chức ở khu rừng cấm của Mường (Tu Mường) – nơi có gốc đa to nhất, xung quanh là nơi yên nghỉ của những người đã khuất.

Lễ hội Xên Mường của người Thái ở Mường Lò do ông Mo Nghè (Mo mường), người trông coi thần quyền cho Chủ mường (Chạu Mường) và hội phụ lão (Hang thạu ké) đứng ra tổ chức. Lễ Xên mường phải có áo của con trai thuộc dòng dõi quý tộc gốc (Tạo chạu sựa) hay người đương chức (Phìa tạo) làm vật tế. Ngày nay, chức danh quý tộc không còn nữa nên người Thái lấy áo của các vị lãnh đạo xã làm vật tế.

Lễ vật do người dân toàn mường đóng góp, có thể mổ từ hai đến bốn con trâu. Riêng người Thái ở Yên Châu, tỉnh Sơn La thì tế trâu trắng. Điều lạ là, con trâu để Xên Mường phải do chính ông mo Nghè đi tìm, ông thích con nào thì chỉ con đấy, không cần biết con trâu của nhà ai. Thú vị hơn, khi bị ông Mo chỉ gậy vào, con trâu đứng yên đến mức gần như bị thôi miên, người giúp việc (ông Cón) chỉ việc dắt trâu về nơi tổ chức lễ hội. Cỗ cúng gồm ba mâm có thịt trâu chín, gạo và rượu. Ông Mo khấn bảy lần, mời các vị thần, các vị tổ tiên về dự lễ và phù hộ cho dân mường được ấm no, sung túc, cuộc sống an vui.

Các trò chơi trong lễ hội Xên Mường thường là xoè vòng theo nhịp Liền sau là trò ném còn. Trước khi bắt đầu, người ta lập đàn tế còn dưới chân cột còn cao 15m-20m. Lễ vật gần giống Xên Mường, chỉ khác là có thêm hàng trăm quả còn trên đàn tế. Quan niệm của người Thái cho rằng, ông trời sai con đỉa dưới ruộng, con muỗi, con vắt trên rừng hút máu đem lên trời. Nay mường tổ chức ném còn để đòi lại. Tham gia trò này chủ yếu là nam thanh niên, ai ném rách tâm điểm trên đỉnh cột còn sẽ được coi là người hùng của hội.

Trong hội Xên Mường còn tổ chức săn cá tập thể, một sinh hoạt khá lý thú. Mọi thành viên trong mường ai cũng có quyền tham gia cuộc săn này. Đây không đơn thuần là vấn đề kiếm ăn mà còn là một hoạt động sinh hoạt văn hoá khẳng định tính thống nhất cộng đồng chặt chẽ hơn. Có thể nói Xên Mường là lễ hội cầu an, vật thịnh, xã hội bền vững

Lễ hội cầu mưa của người Thái đen Mường Lò

Cầu mưa “pay so phôn” là nghi lễ không thể thiếu trước mỗi mùa vụ mới của người Thái đen Mường Lò tỉnh Yên Bái. Trong hội cầu mưa này, con người không chỉ cầu xin các đấng siêu nhiên ban cho mưa thuận gió hòa, mùa vụ tươi tốt, mà còn thông qua các yếu tố tâm linh để khuyên răn, nhắc nhở về bổn phận và trách nhiệm của mỗi người.

Người Thái quan niệm có sự tồn tại của hai thế giới. Thế giới thực gồm sự sống của con người và muôn loài mà con người thấy được. Còn thế giới siêu nhiên là lực lượng quyết định sự sống trên trái đất do đó người Thái rất coi trọng việc cúng tế. Bên cạnh đó, người Thái còn cho rằng thần linh cai quản mưa gió, thương những đứa trẻ sinh ra không có cha để làm nhà cho nên đã không làm mưa khiến cho trời hạn hán, đây cũng là cách trừng phạt những người phụ nữ có con ngoài giá thú, vì vậy trong hội cầu mưa bao giờ cũng do một người đàn bà góa – “me mải” đại diện dẫn đầu cùng dân bản cầu xin các vị thần chủ nước, chủ sông suối (biểu tượng cụ thể là thuồng luồng – “tô ngựa”) để mời các thần linh về lắng nghe nguyện vọng và phù hộ cho con người.

Bà góa cùng các bà, các mẹ trong bản mặc áo tơi cọ – “sửa cọk”, đội nón, cùng khênh bung đến từng nhà để quyên góp. Các bà còn đem theo một chiếc mõ tre – “khe mọ” và một chiếc mẹt – “lổng”. Đến nhà nào các bà cũng gõ mõ báo hiệu và gõ mẹt rồi cất tiếng hát: “Dú hươn bấu lê?/ Me nang ơi?/ Khắp tu lét haử é/ Khay tu phôn haử é/ So nặm phôn háy cả/ So nặm Phạ háy na/ Háy na háy ta cả/ Háy cả háy lí lo/Khẩu dú hay tai phoi/ Hòi dú na tai lệnh/ Pảnh dú sả hôm quân/ Măn dú khủm tai ẩu/ Báo thẩu tai dạ pa/ Báo na tai da nhiểu da nhiếng/ … Mựt ma sương áng ỏm/ Cóm ma cờ áng nin dơ. Có nghĩa là: Có ở nhà không bà nàng ơi/ Đóng cửa nắng cho tôi/ Xin nước mưa làm mạ/ Xin nước trời làm ruộng/ Vừa làm ruộng vừa làm mạ/ Làm mạ làm nhanh nhanh/ Lúa trên nương đã chết khô/ Ốc ở ruộng chết cạn/ Bánh men rượu thành khói/ Sắn dưới đất chết thối/ Con trai không còn nơi bắt cá/ Con cà niễng không có để ăn/… Trời tối như nước chàm/ Mây đen về như mực…”.

Các nhà tùy điều kiện, người góp gạo, người góp rượu, sắn, khoai để vào mẹt rồi các bà mới chuyển vào bung, chủ nhà và đoàn người cùng hát: “Phôn phôn giơ/ Lôm lôm giơ”, có nghĩa là: “Mưa nhanh nhanh/ Gió nhanh nhanh”.

Khi đã có đủ lễ vật, đoàn người rước hình mô phỏng “Tô Ngựa” đến địa điểm cúng lễ, bà góa dùng mẹt làm mâm, đặt lễ vật vào và bắt đầu cúng bài cúng cầu mưa với nội dung mời chủ nước, chủ sông suối về ăn lễ vật và lắng nghe nguyện vọng của dân bản cầu xin trời làm mưa: “Mơi chaủ phảu tu lét mướng bun/ Mơi chảu phảu tu phôn mướng phạ/ Mơi ma kin chịn mu luông, mu pi to lỏng/… Kin lẹo chắng coi cáo đi/ Lảy kin pang chắng coi cáo cụm/ Khắp tu lét mướng bun haử nớ/ Khay tu phôn mướng phạ haử nớ”… Có nghĩa là: Mời chủ giữ cửa nắng của trời/ Mời chủ coi cửa mưa của thiên/ Xin mời về ăn thịt lợn nạc to bằng máng giã gạo… Ăn rồi xin rủ lòng thương/ Ăn xong thì xin phù hộ/ Đóng cửa nắng lại nhé/ Mở cửa mưa đi thôi. Bà góa tổ chức cho dân bản ăn uống vui vẻ và cùng múa hát cầu mưa. Không thể thiếu các điệu xòe truyền thống, bởi “Không xòe không tốt lúa/ Không xòe lúa không trổ bông…”. Sau đó tất cả dân bản, thanh niên nam nữ cùng nhau ra những chỗ còn nước, mọi người vừa té nước lên nhau, vừa đồng thanh: “Phôn phôn giơ/ Lôm lôm giơ”.

Điều độc đáo ở hội cầu mưa của người Thái Mường Lò là vai trò của nghi lễ cúng tế không nhiều. Ta chỉ thấy bà góa cùng các bà mẹ tảo tần chịu thương chịu khó và giàu lòng nhân ái. Trong xã hội người Thái xưa, phụ nữ là người phải chịu nhiều khó nhọc, đặc biệt là những người góa chồng, hoặc có con ngoài giá thú, bởi không có bàn tay người đàn ông làm những việc nặng nhọc. Vì vậy trong hội cầu mưa việc chỉ có các bà, các mẹ đến từng nhà quyên góp và cầu mưa có một ý nghĩa đặc biệt, hành động và lời cầu xin cho bản mường của những người phụ nữ nghèo khổ ấy thấu đến tận trời xanh.

Bà góa như một sứ giả chuyển tải nguyện vọng chính đáng của dân bản với các đấng siêu nhiên, đồng thời có vai trò như một thủ lĩnh. Bà góa cùng các bà đến từng nhà kêu gọi lòng đoàn kết, thức dậy lòng nhiệt tình, ý chí và quyết tâm của dân bản. Phải chăng sự đoàn kết xây dựng nên những công trình thủy lợi “mương, phai, lái lin” và vai trò của người phụ nữ của thời kỳ mẫu hệ của người Thái được biểu đạt tinh tế qua hình ảnh đầy nhân ái này.

Hình tượng chiếc mõ và mẹt vừa mang ý nghĩa âm dương giao hòa, sinh sôi phát triển. Chiếc mẹt như bầu trời thu nhỏ, tiếng gõ mẹt tượng trưng cho tiếng sấm báo hiệu trời mưa. Cái mẹt với người Thái còn có những ý nghĩa sâu sa, tinh tế. Mẹt mang hồn lúa gạo, khi mỗi đứa trẻ ra đời đều được đặt vào mẹt cho hay ăn chóng lớn; xưa những đôi vợ chồng hiếm muộn con lấy mẹt làm giường để nhanh có con; khi mỗi người Thái đen qua đời, mẹt để quạt lửa trong lễ hỏa thiêu, sau đó bao giờ hài cốt cũng được rửa sạch rồi đặt vào mẹt trước khi chôn cất…

Cùng với Lễ hội “Xên bản xên mường”, tức cúng bản cúng mường để tri ân các bậc đã có công dựng xây và bảo vệ nên đất Mường Lò đã được nhân dân tôn làm thành hoàng, lễ hội cầu mưa là một sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng rất quan trọng đối với cộng đồng. Lễ hội thường được tổ chức vào đầu mùa mưa, sau tết Nguyên đán. Cùng với nghi lễ đón tiếng sấm đầu mùa được coi là quyết định của chúa trời, của các vị thần gió, thần mưa, chủ sông suối… trước nguyện vọng của dân lành, người Thái Mường Lò còn coi đây là Hội cầu mùa có ảnh hưởng to lớn đến đời sống vật chất, tinh thần, tâm linh của cả cộng đồng, đến mùa màng, sức khỏe và sự làm ăn của bản mường năm ấy, nên bao giờ cũng được tổ chức rất trọng thể, vui vẻ, thu hút sự tham gia của đông đảo bà con.

Đám Sênh – Lễ chay người Cao Lan

Đám Sênh hay còn gọi là đám chay là một nghi thức cầu an khá đặc sắc và độc đáo của đồng bào dân tộc Cao Lan ở huyện Yên Bình tỉnh Yên Bái. Đây là nghi lễ truyền thống, đã tồn tại trong đời sống văn hóa của đồng bào Cao Lan nơi đây từ rất lâu đời nhằm cầu xin sự bình an cho gia đình và dòng họ của gia chủ nơi tổ chức lễ hội.

Trong một đời người hay trong nhiều năm, gia đình dòng họ người Cao Lan làm ăn không may mắn, gặp  nhiều thất bát, ốm đau bệnh tật, chăn nuôi, trồng cấy luôn bị mất mùa, gặp nhiều tai ương trong cuộc sống… thì đồng bào sẽ tiến hành làm Đám sênh (đám chay) để tạ ơn tổ tiên, trời đất, cầu xin sự che chở và phù hộ cho cuộc sống được an bình, ấm no, hạnh phúc.

Lễ hội Đám Sênh được tổ chức ở quy mô gia đình. Trong mỗi gia đình tùy thuộc vào từng dòng họ riêng biệt mà lễ hội này được tổ chức ở quy mô to nhỏ khác nhau, thời gian tổ chức ngắn hay dài cũng tùy thuộc vào mỗi dòng họ.

Thời gian tổ chức lễ hội Đám Sênh được tính theo chu kỳ đời người, nghi thức này không được tiến hành liên tục hằng năm ở mỗi gia đình dòng họ mà tại mỗi đời, (tính theo 25 năm là một đời thì gia chủ phải tổ chức lễ hội Đám Sênh một lần). Ở đời bố vì điều kiện kinh tế chưa tổ chức được thì phải khất xin sang đời sau và đời con sẽ phải có trách nhiệm tổ chức nghi thức này thay cho đời trước. Đối với các họ lớn như họ Trần thì lễ hội được diễn ra trong 7 ngày, bước vào ngày đầu tiên gọi là ngày khai bút viết sớ (hoi pêt) ngày bắt đầu vào đám. Vào ngày này, gia chủ mời 3 thầy cúng, trong đó có 1 thầy cả đứng tên tổ chức nghi lễ gọi là Say phù, 12-15 thầy Đạo tràng (người giúp việc cho thầy cúng đã được cấp sắc) liên tục viết các tờ sớ bằng chữ nôm Cao Lan để thể hiện các ước mơ nguyện vọng về một cuộc sống tốt đẹp thông qua các lá sớ đó. Thời gian viết sớ được tiến hành liên tục cho tới ngày chính thức của lễ hội Đám Sênh. Nghi lễ chính thức sẽ được diễn ra liên tục từ 17 giờ chiều cho tới sáng ngày hôm sau trong ngày cuối cùng của lễ hội.

Địa điểm tổ chức lễ hội Đám Sênh tại nhà gia chủ nơi tổ chức nghi lễ. Tại đây, đồng bào lập hai đàn cúng, một trên nhà nơi thờ tổ tiên của đồng bào, nơi đây sẽ diễn ra các nghi thức chính của lễ hội Đám Sênh và một đàn cúng dưới sân nơi thờ thổ công và các vị thần trông coi đất đai.

Lễ vật dâng cúng trong ngày lễ chính là các lễ chay bao gồm hoa quả, bánh trái và các thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật. Còn lễ vật phía đàn cúng dưới sân nơi thờ các âm binh và đoàn quân quan của các thánh là lễ tạp bao gồm 5 mâm cúng nhỏ có thịt lợn luộc và một mâm cúng chính gồm 1 con ngan.

Theo quan niệm dân gian, đồng bào cho rằng đây là lễ chay cho nên các thần thánh và tổ tiên chỉ cần cúng lễ chay, còn các đoàn quân quan đi bảo vệ các thần thánh sẽ được cúng lễ tạp mà không cần kiêng chay.

Vào ngày khai bút, gia chủ sẽ mời dân làng đến dự và mở một bữa tiệc nhỏ chiêu đãi mọi người vừa để thông báo về việc tổ chức lễ hội Đám Sênh của gia đình vừa để bà con dân làng biết và chúc mừng cho gia đình. Vào ngày này, thầy cúng tiến hành nghi thức cúng khai bút (hoi pệt) ngay trước bàn thờ tổ tiên của gia đình, sau đó thầy cúng và các đạo tràng liên tục viết sớ trong các ngày từ hôm đó cho tới hôm vào lễ hội chính thức. Trong ngày khai bút dân làng đến dự và uống rượu chúc mừng gia chủ, tiếp đó mỗi người có một món quà nhỏ là các sản vật của gia đình để mừng cho gia chủ đã tổ chức được lễ hội Đám Sênh.

Lễ hội Đám Sênh thắm đượm tinh thần đoàn kết, hội tụ nhiều giá trị nhân văn, tích hợp nhiều yếu tố văn hóa đặc sắc độc đáo của đồng bào Cao Lan ở huyện Yên Bình và nhiều nơi cộng đồng người Cao Lan sinh sống (Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ…). Lễ hội thể hiện những khát khao, nguyện vọng chính đáng của người dân về một cuộc sống tươi đẹp hơn, hạnh phúc ấm no hơn. Do vậy việc khai thác nghiên cứu bảo tồn lễ hội Đám Sênh nhằm tôn vinh các giá trị nhân văn cao đẹp là một việc làm có ý nghĩa, nhất là trong xu thế hội nhập hiện nay.

Lễ cúng họ của người Hmông Suối Giàng

Trong các sinh hoạt tín ngưỡng của người Hmông Si ở xã Suối Giàng huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái, lễ cúng họ “Zù xu”  là một trong những lễ cúng tập thể, cúng chung của cả dòng họ thể hiện một tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người cùng huyết thống để cùng nhau xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn với những khát vọng của một dân tộc giàu truyền thống văn hóa. Lễ “Zù xu”  được tổ chức thường xuyên hàng năm, tùy thuộc vào mỗi dòng họ và những điều kiêng kỵ mà  mỗi dòng họ người Hmông Si ở xã Suối Giàng có những ngày tổ chức nghi lễ khác nhau.

“Zù xu” là lễ cúng cầu xin các thần linh che chở, phù hộ cho các gia đình trong dòng hộ luôn gặp nhiều may mắn trong cuộc sống, anh em con cháu  không bị bệnh tật, không còn bị ốm đau hay tai ương mất mùa, không gặp phải những tai nạn trong lao động sản xuât… Cầu xin tổ tiên ban cho mùa màng của anh em con cháu trong dòng họ luôn được tươi tôt, thóc ngô đầy nhà.

Hiện nay, dòng họ Giàng, Sùng tổ chức lễ cúng vào ngày 17 hoặc 19 tháng 9 âm lịch, dòng họ Vàng, Trang tổ chức vào ngày 27 tháng 7 âm lịch…ngày tổ chức nghi lễ phụ thuộc  vào ngày kiêng kị của mỗi dòng họ mà đồng bào không thể thay thế vào những ngày khác.

Địa điểm tổ chức lễ cúng được thay đổi luân phiên lần lượt theo từng năm, ở đây mỗi gia đình trong dòng họ sẽ được đứng ra tổ chức nghi lễ một lần theo chu kỳ tuần tự từ nhà này sang nhà khác. Theo quan niệm của người Hmông nơi đây, việc tổ chức lễ cúng “Zù xu ”  như thế thì  mỗi gia đình mới có điều kiện thể hiện lòng thành của mình đối với tổ tiên, thần linh thông qua việc trang trải và chi phí mọi lễ vật dâng cúng trong ngày diễn ra nghi lễ. Trong việc tổ chức lễ cúng họ “Zù xu”, đến lượt nhà nào được vinh dự tổ chức nghi lễ thì gia  đình đó phải tự lo liệu toàn bộ các chi phí từ lễ vật, đồ dâng cúng đến thực phẩm thiết đãi toàn bộ dòng họ trong ngày hôm đó, anh em trong dòng họ đi dự lễ không phải đóng góp gì mà mỗi người chỉ mang theo một chai rượu làm lễ vật dâng cúng của gia đình.

Lễ vật chính trong lễ ” Zù xu ”  là thịt lợn, gia đình nơ tổ chức lễ cúng sẽ chuẩn bị thực phẩm và lễ vật dâng cúng từ trước, gia chủ sắp sẵn một con lợn từ 50 đến 70 kg gọi là lợn ” Zù xu”  để tổ chức nghi lễ cúng, ngoài việc  dùng làm lợn ” Zù xu” con lơn này còn dùng làm thực phẩm thiết đãi anh em dòng họ và dành một phần trả công cho thầy cúng và những người giúp việc.

Mọi công việc chuẩn bị như mổ lợn cúng, trang trí nhà cửa, bài trí bàn thờ đều được tiến hành từ hôm trước. Trong ngày lễ chính thức, theo truyền thống, đồng bào Hmông nơi đây kiêng máu và mọi việc liên quan đến tiết động vật, bởi lễ ” Zù xu ”  là ngày lễ cầu sự may mắn. cầu cho tai qua nạn khỏi, nếu nhìn thấy máu thì những điều xấu xa, không may mắn vẫn còn quanh quẩn làm hại anh em trong dòng họ.

Lễ cúng “Zù Xu” chính thức được tổ chức vào buổi sáng, kéo dài và kết thúc vào buổi trưa. Vào ngày lễ, mọi gia đình đều tập trung tại nhà nhà gia chủ. Cùng với mang theo 01 chai rượu thể hiện tấm lòng, từ hôm trước mỗi gia đình vào chọn và chặt 03 cành cây chè vè (lấy phần ngọn dài 40cm), đồng thời dùng 3 loại chỉ đen – trắng – đỏ buộc vào ngọn cây chè vè mang tới nhà gia đình chủ lễ. Theo người dân nơi đây, cây chè vè dùng để xua đuổi tà ma đồng thời dùng để đón những điều may mắn, tốt đẹp.

Trong ngày lễ “Zù xu” để trang hoàng cho lễ cúng, gia chủ vào rừng chặt một cây “Zàng” cao 1,5  đến 2m lấy phần ngọn mang về chôn chính giữa ngôi nhà, mọi cành chè vè buộc chỉ 3 màu của các gia đình trong dòng họ đều được treo lên trên thân cây “Zàng”. Đồng bào Hmông nơi đây quan niệm rằng cây “Zàng ” cùng  với cây chè vè có tác dụng trừ tà, buộc chung các cành chè vè với cây “Zàng” trong ngày lễ sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp xua tan đi mọi điều xấu xa.

Lễ cúng chính thức được tổ chức tại hai nơi, nơi thứ nhất thầy cúng với trang phục truyền thống cầm cây hương cúng khấn trước cây “Zàng”, lời cúng với đại ý cầu xin thần linh phù hộ cho dòng họ một năm được mưa thuận gió hòa, các gia đình trong dòng có một năm gặp được nhiều may mắn, tránh được nhứng tai ương…

Nơi cúng “Zù xu” tiếp theo được tiến  hành sau khi kết thúc lễ cúng ở trong nhà, thầy cúng nhổ cây “Zàng” mang ra cửa chính đi vòng ra phía sau nhà theo hướng tay phải làm nghi thức xua đuổi tà ma cho cả dòng họ. Tất cả anh em con cháu đều theo thầy cúng đi ra phía sau nhà, thầy cúng phụ mang theo một con dao và một cây nỏ thực hiện các hành động xua đuổi tà ma và những điều xấu. Sau đó, cây “Zàng” lại được chôn vào chính giữa ngôi nhà, thầy cúng tiếp tục cúng trong khoảng 30′  với nội dung như lần trước, cầu xin thần linh bảo vệ cho dòng họ thoát hẳn khỏi sự quấy phá của ma tà.

Kết thúc lễ cúng, thầy cúng dùng con dao chặt đôi bó chè vè và cho anh em con cháu mang đi vứt thật xa ngôi nhà của gia chủ. Đồng bào tin rằng, ai càng mang đi vứt xa thì người đó và  gia đình của họ càng may mắn hơn.

Sau khi bó chè vè chặt làm đôi được vứt bỏ, thầy cúng phụ dùng cây nỏ bắn lên trời 03 mũi tên để xua đuổi tà ma, không cho về làm hại các gia đình cho dù ở dưới đất hay trên không trung.
“Zù xu” là  nghi lễ đặc sắc và hết sức độc đáo của người Hmông Si Suối Giàng, lễ hội tích hợp nhiều yếu tố văn hóa bản địa, thấm đượm các giá trị nhân văn, qua đó, góp phần tăng cường tình đoàn kết, tương trợ lẫn nhau giữa các gia đình trong dòng họ để cùng chung tay cộng sức xây dựng đời sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.

Lễ hội Xên Lẩu Nó của người Thái đen

Xên Lẩu nó là nghi lễ quan trọng của người Thái đen Mường Lò tỉnh Yên Bái mà bản chất nhằm tri ân công đức những thầy cúng đã chữa khỏi bệnh cho mọi người – “Mo một”, đặc biệt là những người từng bị bệnh nặng đã khỏi, được coi là những con đẻ – “lụ hỏi” và những người bệnh nhẹ đã chữa khỏi được coi là con nuôi – “lụ liệng”, gửi áo hồn chủ thờ cúng tại nhà thầy mo. Đồng thời đây cũng là ngày hội lớn của cộng đồng, thu hút được mọi đối tượng tham gia, bởi ý thức tôn trọng truyền thống văn hóa của dân tộc, mọi người được gặp gỡ chan hòa cùng người thân, bạn bè, mừng cho nhau tai qua nạn khỏi và tham gia các trò chơi, điệu xòe truyền thống.

Trong đời sống của người Thái Tây Bắc có nhiều lễ cúng. Như cúng bản cúng mường, mà bản chất là lễ cúng thành hoàng, cầu cho bản mường bình yên no ấm. Lễ cúng rừng – cầu thần rừng phù hộ cho núi rừng, bản mường bình yên, trù phú. Cúng đưa hồn người qua đời lên trời, cúng khi đau ốm, lên nhà mới, đám cưới, xuống đồng, mừng cơm mới, cúng vía… Loại trừ những yếu tố mê tín dị đoan, thì thầy mo giúp cho cộng đồng rất nhiều trong việc củng cố đời sống tinh thần, làm tăng niềm tin và nghị lực sống cho mỗi con người trước những thử thách của cuộc sống, giúp con người biết hướng thiện, tránh cái xấu, sống hiếu thuận với cha mẹ, vợ chồng chung thủy, vun vén gia đình, biết đối nhân xử thế và làm theo những điều ông bà dạy và luật tục của bản mường, pháp luật của Nhà nước.

Lễ “Xên Lảu nó” bao giờ cũng được tổ chức tại nhà “Mo một” vào mùa măng mới nhú hàng năm, khi cây cối đâm chồi nẩy lộc, hoa ban trắng tinh khôi tỏa hương thơm mát, hoa mạ vàng tươi cùng muôn hoa đua nở khắp rừng, vạn vật rạo rực sinh sôi sau mùa đông giá, các “lụ hỏi” và các “lụ liệng”, đem lễ vật đến nhà thầy mo tạ ơn tái sinh. Những người này đều đã gửi áo đã mặc, tức là áo mang con vía của mình treo ở bàn thờ của thầy mo ngay từ khi đặt niềm tin vào tài năng và đức độ của thầy mo, để được thường xuyên cầu cúng mong cho khỏe mạnh, bệnh tật tiêu tán. Đến khi người bệnh hoặc chính thầy mo qua đời, người bệnh hoặc người nhà phải đem lễ vật đến xin về. Tùy theo người đã từng có bệnh nặng hay nhẹ mà lễ vật là lợn hay gà, ngoài ra còn có khăn piêu, rượu – “lảu”, hương, nến, rau rừng xôi  tổng hợp – “phắc nửng chụp”, hoa ban – “bók ban”, hoa mạ – “bók mạ”, các cô gái còn dùng hoa ban gài lên tóc, củ gừng – “mắn khá”, đặc biệt không thể thiếu măng rừng – “nó” (măng vầu – “nó pao”, măng sặt – “nó pặt”, măng giềng – “nó khá”) tượng trưng cho sự hồi sinh, mạnh khỏe sau khi được chữa khỏi bệnh. Những người từng bị bệnh nặng còn đem theo một cây báng để cả ngọn cho vào sọt dựng ở bên cạnh bàn thờ tượng trưng cho lễ vật là con trâu đen – còn gọi là “co quái xiên”, cây chuối non cả gốc tượng trưng cho trâu trắng – “co quái lón”, (những cây này còn gọi là “co quái tao”), trên “co quái tao” treo quả còn tượng trưng cho rồng còn – “luông còn” trong truyền thuyết. Với người Thái Tây Bắc rồng là con vật đẹp nhất, là biểu tượng của những gì tốt đẹp nhất, tua còn như tám tia nắng, chín tia mưa, mang theo những hạt giống như lúa, ngô, bông… chờ gieo xuống sinh sôi nẩy nở, tốt tươi.

Ông mo cúng cho từng người một ngụ ý tỏ lòng biết ơn với đấng siêu nhiên: “Đẩy kin bấu lưm thú/ Đẩy dú công cánh ơn/ Sau chắng mík cáy tô luông (hoặc tô mu) ma vảy”, tức là: Được ăn không quên đũa/ Được ở (sống lại) không quên công ơn/ Có gà (lợn) to về tạ. Mỗi người đều được thầy mo cho ba lát gừng được sâu bằng chỉ đen đeo vào cổ làm bùa – “hản”, người bệnh nhẹ buộc vào cổ tay, mọi người đều để cho đến khi tự rơi mới đem cất vào nơi để “Tạy ho”, tức nơi giữ hồn vía của mỗi người, bùa này nếu càng lâu rơi càng được coi là điềm tốt, nên ai cũng chú trọng giữ gìn. Khi buộc bùa cho mỗi người, thày mo đều khấn giống như khẩu quyết: “Phi nha dú cuông năng/ Phi nha thăng cuông nựa/ Ổm dăm quám khất”, có nghĩa là: Ma đừng ở trong da/ Ma đừng trú trong người/ Lời thiêng linh nghiệm. Trong thực tế, những lát gừng giúp mọi người tăng khả năng đề kháng khi trái nắng trở trời, cùng với nghi lễ mang tính tâm linh giúp mỗi người tự tin, lạc quan, có ý thức giữ gìn sức khỏe hơn trong cuộc sống. Mỗi người đều chân thành tỏ lòng biết ơn cứu tử và thề trung thành, hiếu thuận đối với thầy mo như đối với cha mẹ mình: “Tẳng hươn so choi tụp/ Tẳng túp so choi pe/ Phạ phôn so dú cỏng tét/ Phạ đét so dú cỏng moi”, có nghĩa là: Dựng nhà xin giúp một chái/ Dựng nhà xin giúp cây đòn nóc/ Trời mưa xin được trú dưới chân/ Trời nắng xin được nấp dưới bóng.

Sau lễ cúng, mọi người cùng ăn uống vui vẻ. Những lời hát trong bữa cơm thân mật này đều cầu chúc cho mọi người có sức khỏe, con vía không đi lạc làm cho người đau ốm: “Dệt kin khửn dựt dựt sương nặm mả/ Nha lông kha kha sương nặm hảnh…”, có nghĩa là: Làm ăn lên nhanh như nước lũ/ Đừng xuống cạn (nghèo) như nước rút và chúc nhau: “Hảo sâng quang đanh/ Hánh sâng chạng thướng/ Siểng sâng baư/ Saư sâng bók…”, có nghĩa là: Khỏe như nai đỏ/ Mạnh như voi rừng/ Mát như lá/ Tươi hồng như hoa… Mọi người cùng nắm tay nhau nồng say trong điệu xòe vòng xung quanh cây “co quái tao”, khi bước xòe đến  bên mâm cúng không bao giờ quay lưng và tỏ lòng tôn trọng, vừa xòe vừa vui vẻ tung còn.

Người  tung quả còn bay lên mang đi cái úa vàng, vận hạn rủi ro vừa tung vừa hát: “Khắm sai bản lống tọt xia lương, khắm sai mướng lống tọt xia sảy”, có nghĩa là: Chúng ta cùng nhau cầm dây còn ném đi cái úa vàng, nắm dây còn quăng đi cái đau ốm. Người đón còn, đón lấy cái may mắn, tốt đẹp về cùng hát: “Hặp au ăn đi, ăn ngám má chảu/ Hặp ăn ăn thảu, ăn ké má tô”, có nghĩa là: Bắt lấy cái tốt đẹp về mình/ Đón lấy cái phúc, tuổi thọ về ta.

Ngày nay khi trình độ dân trí được nâng cao, người dân khi đau ốm đều đến bệnh viện để khám chữa bệnh nhưng lễ “Xên lảu nó” vẫn được bảo tồn như một nét đẹp văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.

Lễ A – ne – pạ – gờ – bá

Nằm trong nhóm ngôn ngữ Tạng Miến, với dân số khoảng 600 người cư trú tập trung chủ yếu tại hai thôn Nẫu và thôn Nhầy thuộc xã Châu Quế Thượng của huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái, người Xá Phó (Phù Lá) là một trong những tộc người bản địa có nền văn hoá rất phong phú và đa dạng với nhiều những phong tục tập quán nghi lễ tín ngưỡng dân gian độc đáo và đặc sắc mà trong đó lễ A – Ne – Pạ – Gờ – Bá  (Lễ quét ma làng – tên gọi khác là lễ đuổi ma làng) là một trong những lễ hội lớn, đặc sắc và vô cùng quan trọng đối với mỗi người dân nơi đây.Ngày tổ chức lễ a ne pạ gờ bá chính thức vào ngày mồng một tết Nguyên Đán. Địa điểm tổ chức nghi lễ là một bãi đất rộng bằng phẳng gần bờ suối ngay cổng làng.

Lễ quét ma làng  thể hiện những khát khao, mong muốn của người dân về một cuộc sống tươi đẹp hạnh phúc. Đây là phần còn sót lại của nghi thức cầu an cầu yên của cả cộng đồng. Toàn bộ dân làng cùng góp công sức, lễ vật để cầu xin thần linh và trời đất sẽ bảo vệ dân làng luôn ấm no, khoẻ mạnh.
Vào ngày lễ, tất cả các gia đình trong làng mỗi nhà đều phải đóng góp một con gà, một lít rượu và 3 ống gạo, thịt lợn (do cả làng cùng góp chung)…để cùng cả làng tổ chức lễ cúng chung. Trong ngày lễ tất cả mọi người sinh sống trong làng đều phải ra nơi tổ chức lễ cúng cùng nhau chuẩn bị lập đàn cúng, làm bàn thờ và dự lễ cúng đuổi ma làng cùng với thầy cúng.

Để tổ chức nghi lễ, trước những ngày diễn ra lễ cúng chính thức, người dân lập một đàn cúng ngay sát mép suối mặt quay về phía mặt trời mọc (sàn cao khoảng 0,8m rộng khoảng 40 – 60m2, đủ chỗ cho cả làng ngồi trên sàn, vì ngày trước làng đồng bào Xá Phó nơi đây thông thường từ 10-15 gia đình cùng sinh sống). Đây là nơi dân làng sẽ tổ chức lễ cúng thần linh và cùng nhau ăn uống vui vẻ mừng cho một năm mới với những ước muốn cuộc sống hạnh phúc và no đủ.

Tại cổng chính của làng, một cây nêu được dựng lên phía bên phải cổng làng. Đây là câu nêu dùng để treo một chiếc mõ báo và do một người được dân làng cử ra để canh giữ  và báo hiệu cho cả làng biết mỗi khi làng có người lạ vào làng trong suốt 15 ngày kiêng kị của lễ “a ne pạ gờ bá”.

Sau khi mọi công việc chuẩn bị cho nghi lễ được hoàn tất, vào ngày mồng một tết, lễ cúng chính thức được diễn ra dưới sự chủ trì của thầy cúng trong làng. Lễ vật chính trong lễ cúng đuổi ma làng a ne pạ gờ bá bao gồm :  Một mâm cúng chính được đặt trên sàn có một con gà luộc, thịt, rượu, dây chỉ hai màu đen và trắng, một chiếc mõ gỗ, một đoạn dây thừng buộc mõ, hương và giấy. Mâm cúng được đặt giữa sàn hướng về phía làng.

Vào ngày lễ chính thức, từ sáng mọi người trong làng từ già đến trẻ đều tập trung tại sàn nơi diễn ra lễ cúng. Tất cả mọi người mỗi công mỗi việc cùng nhau chuẩn bị cho lễ cúng. Người mổ gà, kẻ giết lợn, một nhóm khác cùng thầy mo chuẩn bị mâm cúng, trưởng bản cùng với những người giúp việc tiếp nhận lễ vật và phần đóng góp của những gia đình trong làng bản mang tới góp vào lễ cúng. Ngoài phần lễ vật dâng cúng, tất cả đồ lễ do các gia đình mang tới đều dùng để làm cỗ ăn mừng cho toàn thể dân làng. Theo người dân nơi đây cho biết tất cả số thực phẩm mang ra đóng góp của các gia đình trong ngày lễ đều phải được ăn hết tại nơi cúng mà không ai mang về bản. Theo quan niệm của người Xá Phó, nếu không ăn hết mà mang về nhà sẽ mang theo những điều không may mắn và những rủi ro trong năm mới.

Lễ cúng chính thức được bắt đầu vào khoảng 15h khi dân làng đã tập trung đầy đủ và mọi công việc chuẩn bị cho ngày lễ đã hoàn tất, từ việc chuẩn bị lễ cúng các đồ lễ và cỗ ăn mừng trong ngày lễ. Thầy cúng ngồi trước mâm cúng và tiến hành cúng khấn cầu xin các thần linh, thổ công thần đất về phù hộ và giúp đỡ và bảo vệ cho toàn thể dân làng trong năm mới gặp được nhiều may mắn, cúng cầu xin các thần linh về canh giữ cho bản làng mọi người luôn được khoẻ mạnh, làm ăn được thuận lợi, nuôi trồng được tốt tươi, trồng lúa lúa chắc hạt, trồng ngô ngô đầy đồng, không bị các loại chim chóc về phá hoại mùa màng của người dân, cầu xin các thần thánh canh cho các loại ma đói, ma khát không cho về làng mà phá quấy dân làng.

Thầy mo cúng trong khoảng 15 phút. Tiếp đến thầy mo cầm mõ lên, cả dân làng hướng về phía chiếc mõ, với niềm tin rằng chiếc mõ sẽ canh giữ cho cả làng không cho các ma dữ, vía dữ vào làng mang theo những điều không may mắn rủi ro về làng.  Cả làng sẽ cùng bầu ra một người có nhiệm vụ canh chừng chiếc mõ trong suốt 15 ngày kiêng của lễ a ne pạ gờ bá.  Người được dân làng lựa chọn phải là người cao tuổi cư trú lâu đời trong làng, là người ăn ở có phúc đức được dân làng tin tưởng. Theo quan niệm dân gian, ai được chọn làm người canh mõ là một điều vô cùng may mắn cho gia đình và dòng họ của người đó. Họ tin tưởng rằng thần linh và các thánh sẽ phù hộ cho gia đình và cả dân làng một năm mới sẽ chỉ gặp những điều may mắn trong cuộc sống, tránh được những điều xấu xa đen đủi.

Kết thúc lễ cúng mọi người dân có mặt tại lễ  A ne pạ gờ bá đều cúi xuống vái lạy chiếc mõ 3 vái, đồng thời, mỗi người dân đều khấn với đại ý như: “ …Nhờ mõ trông bản làng cho yên ổn tốt đẹp…làm ăn phát tài…được mùa no đủ…không bị dịch bệnh thiên tai mất mùa…”

Sau đó thầy mo sẽ tiến hành nghi thức buộc chỉ vía cho mõ để thông qua đó các thần linh bảo vệ mõ và bảo vệ dân làng trong năm mới. Thầy mo lấy hai đoạn chỉ đen và chỉ trắng trên mâm cúng buộc vào hai đầu của chiếc mõ. Họ cho rằng, gia đình nào trong bản cũng góp gà, thịt, rượu để tổ chức lễ cúng này với mong muốn thần linh phù hộ cho cả làng cả bản, thầy mo thay mặt cho dân làng buộc vía để gửi gắm những ước mơ nguyện vọng của người dân vào những sợi chỉ vía đó, cầu xin mõ hãy bảo vệ dân làng.

Cúng xong thầy mo giao mõ và dây mõ cho người đã được lựa chọn canh mõ. Người được lựa chọn sẽ cùng hai thanh niên trong làng mang mõ ra cây nêu được dựng trước cổng làng, và từ đó người canh mõ phải có nhiệm vụ gác cổng làng trong 15 ngày kiêng của lễ a ne pạ gớ bá. Khi có người lạ vào làng phải rung mõ cho cả làng biết để người dân đóng hết các cửa không cho khách lạ vào nhà mình.
Kết thúc nghi lễ cả làng cùng nhau ăn uống ngay tại nơi diễn ra lễ cúng. Mọi người từ già đến trẻ đều ăn uống vui vẻ với nhau trên sàn cúng từ lúc đó cho tới tận khuya.

Trong lúc ăn uống vui chung cũng là nơi diễn ra các hình thức sinh hoạt văn hoá, văn nghệ dân gian với các điệu xoè “Xình xi bá” truyền thống, các làn điệu dân ca mượt mà hoà quyện với âm thanh độc đáo của tiếng sáo mũi “cúc ke” và tiếng kèn bầu “Ma nhí” cùng với cỏ cây núi rừng hùng vĩ tạo nên một không khí thật vui tươi, đoàn kết thấm đượm tinh thân nhân văn cao cả, trong niềm hy vọng một năm mới mở ra với bao nhiêu điều tốt đẹp.

Hội đền Đại Cại

Một năm có một lần diễn ra, Lễ hội đền Đại Cại ở tỉnh Yên Bái đã trở thành nơi để cho những môn thể thao truyền thống của nhân dân các dân tộc trong vùng được duy trì và phát triển rộng rãi hơn. Thông thường, Lễ hội đền Đại Cại diễn ra  ở xã Tân Lĩnh, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái trong 2 ngày. Ngày chính lễ tiến hành vào ngày rằm tháng Giêng.

Trong ngày lễ chính bắt đầu là nghi thức rước và dâng lễ độc đáo bằng thuyền độc đáo trong quần thể di tích. Lễ rước bà chúa quân lương Vũ Thị Ngọc Anh và lễ dâng hương được đồng bào chuẩn bị kỹ lưỡng. Đoàn rước theo đường thủy ngòi Lăn, rồi xuôi dọc sông Chảy, tiếp theo đi đường bộ vào sân đình làm lễ, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.

Phần hội có thể diễn ra trước hoặc sau lễ rước với nhiều sinh hoạt cộng đồng phong phú. Chương trình văn nghệ trong ngày khai hội với Các tiết mục của diễn viên chuyên nghiệp hay chính những người dân địa phương trình bày đã tạo không khí phấn khởi vui tươi trong ngày đầu năm mới.

Trong ngày lễ hội, bên cạnh những môn thể thao hiện đại không thể thiếu những trò chơi đậm bản sắc của đồng bào nơi đây. Ngay sau lễ rước, dòng sông ngay trước cửa đền đã vang động tiếng trống thôi thúc các vận động viên đua thuyền tranh tài. Chiếc thuyền độc mộc này là phương tiện đi lại không thể thiếu của đồng bào Tày, đồng bào Dao của các xã dọc theo sông Chảy như Tân Lĩnh, An Lạc. Bơi thuyền đạp chân như bẩm sinh trong mỗi chàng trai, cô gái ở đất này. Và ai được tham gia cuộc đua này cũng lấy làm tự hào lắm.
Kết thúc cuộc đua trên sông, cũng vừa khi sương sớm tan hết, nắng lên đủ để trai làng, gái bản và du khách nhìn rõ vòng còn. Cây nêu cao vút dựng lên ngay giữa sâu khấu nhà đền, vòng còn nhỏ nhoi thách thức những người chơi điệu nghệ và những quả còn tíu tít qua lại như muốn nói lên ước vọng và tinh thần vượt lên khó khăn của mỗi người dân vùng cao.

Trong Hội đền Đại Cại, kéo co cũng là môn thi đấu không thể thiếu. Nhưng vui hơn ở đây là cuộc thi tài giữa các thôn của xã Tân Lĩnh – một địa bàn được coi là có trường luyện binh, là nơi sản xuất lương thực nuôi quân của Phó tướng Vũ Thị Ngọc Anh năm xưa. Những người tham gia các đội chơi này đã thể hiện bề dày truyền thống lịch sử của vùng đất thiêng.

Đặc biệt thú vị là ở môn đánh quay. Ở sân chơi này, những con quay được người chơi đẽo gọt công phu, nhiều con quay gắn bó với họ trong nhiều cuộc chơi ở thôn bản. Người chơi cũng thật giỏi dang khi đánh thật trúng quay đối phương để vào những vòng trong để rồi xứng đáng nhận phần thưởng từ ban tổ chức.

Cũng như kéo co, sân đấu vật trống thúc liên hồi giục giã các đô vật là các chàng trai người Tày, người Kinh, người Dao vào xới. Sức khỏe, sự khôn khéo, nhanh nhẹn thể hiện trong từng miếng lừa, thế tấn, bước ra vào mạnh mẽ. Tiếp sau là môn đẩy gậy – một môn thi đấu đòi hỏi sức khỏe và kỹ thuật cao. Tuy không có nhiều vận động viên, nhưng việc đưa vào thi đấu như khẳng định rằng đây là môn thể thao mũi nhọn của các địa phương vùng cao ở huyện Lục Yên thuộc tỉnh Yên Bái. Ngoài các môn thể thao này, tùy theo quy mô Lễ hội hàng năm mà địa phương còn tổ chức thi đấu bóng chuyền, cờ tướng, bắn nỏ và một số môn khác.

Tìm trên Google : lễ hội tại yên bái, hội hè yên bái, các lễ hội đặc sắc ở yên bái, lễ cấp sắc người dao, lễ hội đình làng dọc, lễ hội lồng tồng, lễ hội hoa ban, lễ hội xên mường, lễ hội ruộng bậc thang, le hoi tai yen bai, hoi he yen bai,  cac le hoi dac sac o yen bai, le cap sac nguoi dao, le hoi dinh lang doc, le hoi long tong, le hoi hoa ban, le hoi xen muong, le hoi ruong bac thang

Bạn thấy bài viết này thế nào?

Hãy để lại đánh giá của bạn nhé

Đã có 52 bình chọn và điểm trung bình là 4.8

Chưa có đánh giá nào

Bạn đang xem bài viết về địa danh ở Yên Bái

YÊN BÁI

Vị trí Yên Bái trên bản đồ Việt Nam

Yên Bái là một tỉnh miền núi, nằm ở phía Tây Bắc của Tổ quốc, có tới 30 dân tộc anh em cùng chung sống. Sự hấp dẫn của vùng đất này là hình sông thế núi, được kiến tạo dọc sông Hồng trên nền phù sa cổ sinh, với những cánh đồng bằng phẳng đan xen cùng núi non ngoạn mục vươn sát bờ sông. Là “cửa ngõ phên dậu” vùng Tây Bắc, nơi giao thoa của hai khu vực Đông Bắc – Tây Bắc, của những nền văn hoá đa sắc tộc, hình thành nên nền văn minh sông Hồng rực rỡ.

Bạn có biết: Trong giới du lịch bụi, đèo Khau Phạ (Mù Cang Chải, Yên Bái) được coi là “tứ đại đỉnh đèo” của miền Bắc.

  • Diện tích: 6.886,3 km²
  • Dân số: 771.600 người
  • Vùng: Tây Bắc
  • Phân chia hành chính: 1 thành phố, 1 thị xã, 7 huyện
  • Mã điện thoại: 216
  • Biển số xe: 21