Cùng Phượt – Trên bản đồ du lịch Tây Bắc có lẽ Lai Châu chưa phải là một điểm đến được nhiều người quan tâm bởi cơ sở hạ tầng còn yếu, các địa điểm du lịch chưa được đầu tư nhiều. Tuy nhiên trong những năm gần đây, cùng với việc xây dựng mới tỉnh lỵ, du lịch Lai Châu đã bước đầu thúc đẩy và phát triển các hình thức du lịch cộng đồng tại địa phương. Về tiềm năng du lịch, Lai Châu có nhiều cao nguyên cao trên 1.500m, mây, sương phủ bốn mùa, khí hậu trong lành, mát lạnh quanh năm như: cao nguyên Sìn Hồ, Hồ Thầu, Dào San. Ngoài ra Lai Châu cũng có nhiều đỉnh núi cao, sông suối nhiều thác ghềnh, như: đỉnh Fansipang, dãy Pu Sam Cáp (cao trên 1.700 m), sông Đà, sông Nậm Na, sông Nậm Mu.
©Bản quyền hình ảnh: Trong bài viết có sử dụng một số hình ảnh được tìm kiếm thông qua công cụ Google Image của các tác giả jonnyrouse7, cinderella_en_grey, thangnguyenphotos, liemdang, haranatsuga, pursuethewind, Dung Bui, Ha Them, UBND Tp Lai Châu, Không Tồn Tại, AEA Việt Nam, Vũ Ngọc Ký Văn, 임지훈, hoadoan8x, Trịnh Lê, Bùi Đức Phong, justwilliamtravelling, Đỗ Anh Tuấn, Đinh Hồng Nhung, TTXTDL Lai Châu, Tuan Seven, Chau Loi, Minh Huệ, Cuong Thanh Pham, i.mang0, Hoài Việt, Tiến Hoàng Lương, hannah.ph.an, Nguyễn Toản, Duong Tuong, TTXTDL Lai Châu, Lê Hồng Hà, Trinh Van Tuyen, Tran Viet Dung, Faith Ttvn, Trần Giáp, Dau Huy Ngoc, Nguyễn Thanh Thúy RV, Hoabanfood, francis.thuan, Hoàng Mạnh Linh, Hoa Xuân, Thuy Hoang, Loan Ỉn, Bồ Công Anh, Thanh Tuyền, Hang Le, Tẩn Mỹ Thùy, Trang Milk, Tên Chí Linh, Vợ Bốp Xăm, Haisan Vananh, FView TV, Vui Vũ, Lieu Thuoc Trai Tim, Đoàn Thị Thắm, Trần Vũ Hạnh Nguyên, Hà Hoàng, earth_._experience nhằm minh họa rõ hơn cho nội dung bài viết. Bản quyền những hình ảnh này thuộc về tác giả. Chính sách của Cùng Phượt về bản quyền hình ảnh các bạn có thể theo dõi tại đây.
Giới thiệu chung về Lai Châu
Mục lục
- 1 Giới thiệu chung về Lai Châu
- 2 Đi du lịch Lai Châu vào thời gian nào ?
- 3 Hướng dẫn đi đến Lai Châu
- 4 Lưu trú ở Lai Châu
- 5 Các địa điểm du lịch ở Lai Châu
- 6 Các món ăn ngon và đặc sản Lai Châu
- 6.1 Lợn cắp nách
- 6.2 Thịt lợn trộn lá chua
- 6.3 Món cá nướng của người Thái
- 6.4 Cá bống vùi gio (tro)
- 6.5 Xôi tím
- 6.6 Thịt lợn hun khói
- 6.7 Măng nộm hoa ban
- 6.8 Nộm rau dớn
- 6.9 Món ăn từ rêu đá
- 6.10 Trứng kiến
- 6.11 Bánh đen Sìn Hồ
- 6.12 Khâu nhục
- 6.13 Canh tiết lá đắng
- 6.14 Bánh dày người Mông
- 6.15 Bánh chưng đen
- 6.16 Lòng lợn nhồi gạo nếp
- 6.17 Dưa mèo
- 6.18 Đặc sản Lai Châu mua về làm quà
- 7 Lịch trình du lịch Lai Châu
Thành phố mới Lai Châu, xây dựng mới hoàn toàn từ khi thủy điện Lai Châu được xây dựng (Ảnh – cinderella_en_grey) |
Lai Châu là tỉnh biên giới phía Tây Bắc của Tổ quốc, cách Thủ đô Hà Nội khoảng 450 km về phía Đông Nam, phía Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, phía Tây giáp tỉnh Điện Biên, phía Đông và phía Đông Nam tiếp giáp với hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái, phía Nam tiếp giáp với tỉnh Sơn La. Địa hình được tạo bởi những dãy núi chạy dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, có nhiều đỉnh núi cao như đỉnh Pu Ta Leng cao 3.096 m. Núi đồi cao và dốc, xen kẽ nhiều thung lũng sâu và hẹp, phía Đông là dãy núi Hoàng Liên Sơn, phía Tây là dãy núi Sông Mã, giữa hai dãy núi trên là phần đất thuộc vùng núi thấp tương đối rộng lớn thuộc lưu vực sông Đà với nhiều cao nguyên đá vôi dài 400 km chạy suốt từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Quan Sơn, Quan Hóa (Thanh Hóa). Có nhiều cao nguyên, sông suối, sông có nhiều thác ghềnh, dòng chảy lưu lượng lớn nên có tiềm năng thuỷ điện rất lớn. Có 265,095 km đường biên giới giáp với Trung Quốc, là tỉnh có vị trí quan trọng về địa lý và an ninh quốc phòng. Tỉnh Lai Châu có 9.068 km2 diện tích tự nhiên; có 08 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm Thành phố Lai Châu và các huyện: Mường Tè, Sìn Hồ, Nậm Nhùn, Tam Đường, Phong Thổ, Tân Uyên, Than Uyên.
Tỉnh Lai Châu được thành lập theo Nghị định ngày 28 tháng 6 năm 1909 của Toàn quyền Đông Dương. Lúc đó tỉnh Lai Châu gồm các châu Lai, châu Quỳnh Nhai, châu Điện Biên tách ra từ tỉnh Sơn La, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Lai Châu (nay là thị xã Mường Lay thuộc tỉnh Điện Biên). Ngày 16 tháng 1 năm 1915 tỉnh Lai Châu bị thay thế bằng Đạo Quan binh 4 Lai Châu dưới sự cai trị quân sự. Sau này tỉnh lỵ chuyển về thị xã Điện Biên Phủ, (nay là thành phố Điện Biên Phủ thuộc tỉnh Điện Biên). Từ 1 tháng 1 năm 2004, tỉnh Lai Châu tách thành hai tỉnh là tỉnh Lai Châu (mới) và tỉnh Điện Biên. Tỉnh lỵ mới chuyển về thị xã Tam Đường (trước đó gọi là thị trấn Phong Thổ) và gọi là thị xã Lai Châu (mới). Thị xã Lai Châu cũ đổi tên là thị xã Mường Lay (thuộc tỉnh Điện Biên).
Đi du lịch Lai Châu vào thời gian nào ?
Mây mù trên đỉnh Ô Quý Hồ (Ảnh – thangnguyenphotos) |
Mang đặc trưng của khí hậu và văn hóa Tây Bắc nên thời gian thích hợp để du lịch Lai Châu cũng tương tự như khoảng thời gian thích hợp để đi Tây Bắc.
- Đi vào khoảng tháng 9-10 để kết hợp đi ngắm lúa Mù Cang Chải cùng với cánh đồng Mường Than ở huyện Than Uyên.
- Đèo Ô Quý Hồ nối Lai Châu và Sa Pa, các bạn có thể kết hợp chuyến du lịch Sa Pa của mình để khám phá Lai Châu.
- Ở Lai Châu cũng có một biển mây nho nhỏ ở Sìn Hồ, không hoành tráng như ở Tà Xùa hay Y Tý nhưng cũng rất tuyệt, các bạn có thể đến Tà Xùa vào khoảng tháng 3-4, nếu may mắn sẽ gặp được biển mây này.
- Các bạn nên tránh đi vào mùa mưa của Tây Bắc nhất là những dịp có bão hay áp thấp nhiệt đới gây mưa bởi lúc này các tuyến đường Tây Bắc thường xuyên rơi vào tình trạng bị sạt lở đất, nước lũ trên các sông suối cũng dâng cao rất nguy hiểm.
Hướng dẫn đi đến Lai Châu
Phương tiện cá nhân
Nếu sang Lai Châu từ hướng Sa Pa, các bạn sẽ được đi qua Ô Quý Hồ, một trong những con đèo rất đẹp của vùng Tây Bắc (Ảnh – liemdang) |
Từ Hà Nội các bạn có 2 lựa chọn để đi đến Lai Châu. Phương án thứ nhất đi qua đường 32 đi Nghĩa Lộ, Mù Cang Chải, Than Uyên rồi đến Lai Châu. Hãy lựa chọn phương án này nếu các bạn có kế hoạch khám phá Nghĩa Lộ hay ngắm mùa lúa chín ở Mù Cang Chải. Lựa chọn phương án này quãng đường sẽ xa hơn (khoảng 420km) và thời gian sẽ lâu hơn. Phương án thứ hai là sử dụng tuyến đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai, sau đó lên Sa Pa và qua đèo Ô Quy Hồ để sang Lai Châu. Phương án thứ hai này quãng đường di chuyển sẽ giảm khoảng 40-50km, thời gian giảm khoảng 4 tiếng do chặng Hà Nội – Lào Cai đi hoàn toàn trên cao tốc.
Phương tiện công cộng
Lai Châu cách Hà Nội khoảng gần 500km, hiện tại có khoảng gần 10 hãng xe đang khai thác trên tuyến Hà Nội – Lai Châu, xe thường xuất phát tại bến xe Mỹ Đình, cũng có một số hãng có xe xuất phát từ bến xe Giáp Bát
Xe đi các huyện của Lai Châu
Lai Châu – Than Uyên
Giờ xuất bến : 6h30; 10h00; 12h30;13h15; 14h30
Lai Châu – Mường Tè
Giờ xuất bến : 5h30; 6h15; 7h00
Lai Châu – Sìn Hồ
Giờ xuất bến : 6h00; 13h30
Lai Châu – Pa Há
Giờ xuất bến : 6h30; 13h00
Lai Châu – Dào San
Giờ xuất bến : 5h15
Lai Châu – Mường So
Giờ xuất bến : 12h
Thuê xe máy ở Lai Châu
Ở Lai Châu chưa có nhiều cửa hàng cho thuê xe máy và thủ tục hơi phức tạp hơn so với các địa điểm khác (đặt cọc số tiền lớn, khách du lịch nước ngoài thì đặt lại hộ chiếu) tuy nhiên trong một số trường hợp cần thiết, các bạn vẫn có thể thuê xe máy ở Lai Châu để đi tạm. Nếu muốn thoải mái hơn, các bạn có thể đi xe khách lên Sa Pa rồi thuê xe máy ở Sa Pa, vượt qua đèo Ô Quy Hồ là đã sang tới đất Lai Châu. Tuy nhiên, nếu sử dụng phương án này, nhớ nói rõ với bên thuê xe về việc bạn cần thuê xe để đi chặng đường dài để họ chuẩn bị cho xe tốt nhé. Mấy cái xe tay ga thuê trong thị trấn Sa Pa khá lởm, chọn xe số thôi.
Xem thêm bài viết: Các cửa hàng cho thuê xe máy ở Lai Châu (Cập nhật 11/2024)
Lưu trú ở Lai Châu
Khách sạn nhà nghỉ ở Lai Châu
Mặc dù nằm khá sát với một số điểm du lịch nổi tiếng như Mù Cang Chải, Sapa nhưng hiện tại Lai Châu chỉ đươc khá ít khách du lịch lựa chọn ở lại lưu trú qua đêm mặc dù trên hành trình du lịch có đi qua các điểm ở Lai Châu, điều này xảy ra có lẽ bởi khả năng đáp ứng về việc ăn nghỉ tại các địa điểm trên chưa tốt cộng với chất lượng các cơ sở lưu trú ở Lai Châu chưa cao. Tính đến đầu năm 2014, toàn tỉnh hiện đã có hơn 100 cơ sở lưu trú ở tất cả các huyện, thị xã, chính vì thế các bạn khi lựa chọn du lịch Lai Châu hoàn toàn có thể yên tâm việc ăn nghỉ tại đây
Một số khách sạn tốt ở Lai Châu
Khách Sạn Minh Sơn
Địa chỉ: 33 Mường Kim, Tân Phong, TP Lai Châu, Lai Châu
Điện thoại:
0948382263
Xem giá phòng ưu đãi từ:
Khách sạn Mường Thanh
Địa chỉ: Đường Lê Duẩn, Thành phố Lai Châu, Lai Châu
Điện thoại:
02133790888
Xem giá phòng ưu đãi từ:
Hoàng Gia Hotel
Địa chỉ: 29 Nguyễn Thái Bình, Tam Đường, TP Lai Châu, Lai Châu
Điện thoại:
0972869621
Xem giá phòng ưu đãi từ:
Khách sạn Bình Long
Địa chỉ: Tổ 18 Phố Hoàng Diệu, TP Lai Châu, Lai Châu
Điện thoại:
0914522122
Xem giá phòng ưu đãi từ:
Hoang Nham Luxury Hotel
Địa chỉ: Đường 30 Tháng 4, Tân Phong, TP Lai Châu, Lai Châu
Điện thoại:
02136268888
Xem giá phòng ưu đãi từ:
Xem thêm bài viết: Khách sạn nhà nghỉ ở Lai Châu (Cập nhật 11/2024)
Homestay ở Lai Châu
Homestay là hình thức đi du lịch dành cho những du khách muốn khám phá, trải nghiệm và tìm hiểu về phong tục tập quán của người dân địa phương, du khách có thể ăn, nghỉ, tham gia các sinh hoạt cùng gia chủ để cảm nhận rõ hơn về văn hóa bản địa. Hiện nay, điểm du lịch cộng đồng Bản Hon, Tam Đường Sìn Suối Hồ, Phong Thổ và ở Thị trấn Sìn Hồ đang là những điểm đến được nhiều du khách lựa chọn khi muốn khám phá du lịch cộng đồng ở Lai Châu.
Xem thêm bài viết: Danh sách homestay ở Lai Châu (Cập nhật 11/2024)
Các địa điểm du lịch ở Lai Châu
Đèo Ô Quy Hồ (Ô Quý Hồ)
Tây Bắc biết đến như một chặng đường mang nhiều cảm xúc, với đặc điểm là núi non hiểm trở thì những con đường đèo chính là điểm nhấn cho sự hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc. Một trong những cung đường đèo hiểm trở bậc nhất của núi rừng Tây Bắc không thể không kể đến đèo Ô Quý Hồ.
Đèo Ô Quý Hồ nối liền 2 tỉnh Lai Châu và Lào Cai, nơi có đỉnh Fansipan huyền thoại. Nằm ở độ cao hơn 2000m giữa mây núi ngút ngàn, cung đường đèo hiện ra mềm mại, trải dài như dải lụa uốn mình sát những vách núi dựng đứng. Đèo Ô Quy Hồ còn có tên gọi là đèo Hoàng Liên, Đèo Hoàng Liên Sơn do đèo vượt qua dãy núi Hoàng Liên Sơn, hoặc đèo Mây do trên đỉnh đèo quanh năm mây phủ, nhưng ít ai biết rõ xuất sứ cái tên “Ô Quý Hồ”. Ô Quý Hồ chính là tiếng kêu da diết của một loài chim mỗi khi hoàng hôn rơi trên đỉnh núi và ẩn sau tiếng kêu ấy là một câu chuyện tình yêu không thành của đôi trai gái.
Ngoài con đường mê hoặc bởi những khúc cua tay áo liên tục, Ô Quý Hồ còn hấp dẫn ở sự khác biệt rất lớn về nhiệt độ ở hai phía của con đèo. Nếu du khách đang chịu cái nóng ấm hơi khô của sườn Tây dãy Hoàng Liên (thuộc địa phận Lai Châu) thì sẽ ngạc nhiên thích thú khi vượt qua đỉnh đèo Cổng Trời của Ô Quý Hồ để đón nhận hơi gió lúc nào cũng ẩm và mát lạnh bên phía Sapa (Lào Cai).
Đứng trên đỉnh đèo hùng vĩ, cảnh sắc thiên thiên của đại ngàn được thu trọn vào tầm nhìn của du khách, khí hậu trong lành mang lại cho ta cảm giác thật dễ chịu. Đến Ô Quý Hồ vào mùa đông, nếu may mắn ta có thể được chiêm ngưỡng một cảnh tượng hiếm gặp ở Việt Nam đó là những bông tuyết và hiện tượng băng đá. Những giọt nước đọng lại trên những cành cây, bông hoa bị đóng băng tạo nên hình ảnh thật đẹp và độc đáo. Ở nơi cao hơn, ta có thể thấy được trên nền đất màu trắng xóa của những bông tuyết và bắt gặp hình ảnh của những đứa trẻ, các cặp tình nhân đang thích thú nô đùa cùng nhau và quên đi cái giá rét khắc nhiệt của thời tiết.
Tam Đường
Cọn nước Nà Khương và Đồi chè Bản Bo
Chỉ cách thi trấn Tam Đường khoảng 9km, Cọn Nước Bản Bo và Cọn nước Nà Khương là điểm du lịch nổi tiếng nhất tại Lai Châu về sự độc đáo và cảnh quan tuyệt đẹp. Sải bước qua chiếc cầu treo nằm trên con suối Nậm Mu và lang thang trên các con đường nhỏ uốn lượn, Bạn sẽ bước vào 1 cánh đồng lúa chín tuyệt đẹp nằm lọt thỏm giữa các đồi núi bao quanh. Vào tháng 11, mùa nước cạn, dân bản sẽ dựng khoảng 25 – 30 Cọn nước để đưa nước từ suối vào các cánh đồng qua các ống tre dẫn nước. Chúng tôi tới đây khi mới chỉ có 3 -4 Cọn nước được dựng xong nhưng vẫn cảm thấy trầm trồ trước sự độc đáo này.
Trên đường trở lại thành phố, Bạn đừng quên ghé thăm đồi chè bản Bo, nơi có thể ngắm nhìn các ruộng lúa, đồi chè xanh ngắt tuyệt đẹp trong ánh chiều tà hoàng hôn.
Bản Nà Luồng
Nhờ cảnh đẹp hoang sơ cùng với các giá trị văn hóa truyền thống còn lưu giữ lại, bản Nà Luồng, xã Nà Tăm, Tam Đường đã trở thành điểm du lịch thu hút khách đến thăm quan.
Theo lời giải thích của người dân địa phương nơi đây, dịch theo nghĩa của tiếng dân tộc Lào thì từ “Luồng” có nghĩa là “con rồng”, “Nà” có nghĩa là “ruộng”. Tương truyền, nơi đây là mảnh đất trù phú, địa hình bằng phẳng có núi non xanh biếc lại có dòng Nậm Mu trong vắt, hiền hòa chảy quanh năm, thuận lợi cho việc cấy lúa, trồng ngô. Cảnh sắc thơ mộng con người lại chân thật, giàu lòng mến khách, nên rồng thường xuống tắm và nằm nghỉ trên bãi ruộng…
Hiện nay bản Nà Luồng có 94 hộ gia đình, hơn 400 nhân khẩu, 100% dân tộc Lào sinh sống. Nhờ chú trọng việc giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc nên các phong tục tập quán dường như còn nguyên vẹn không bị đổi thay theo thời gian. Vì vậy, đến với nơi này, du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp cổ kính của các ngôi nhà sàn có kiểu kiến trúc 4 mái đặc trưng, hít thở bầu không khí trong lành, được tận hưởng cảm giác bình yên, êm ả nơi núi rừng Tây Bắc và đặc biệt là được giao lưu trò chuyện, hàn huyên tâm sự với những con người chân chất, tấm lòng đơn sơ nhưng nồng hậu. Từ trên cao nhìn xuống, Nà Luồng ẩn khuất trong vạt rừng xanh bát ngát, có mây núi mênh mang, có những thửa ruộng lúa chín vàng óng đẹp đến mê hồn. Khi buổi bình minh, tiếng chim hót vui réo rắt, rồi sau mỗi buổi chiều tà cảnh ấm cúng, sum họp lại rộn ràng trong các ngôi nhà gỗ thưng hữu tình nơi miền sơn cước này.
Đến nay, cuộc sống của người dân bản địa phần lớn còn mang tính tự cung, tự cấp. Các món ăn chủ yếu được chế biến từ những sản phẩm của nhà làm ra như: rau rừng, cá suối nướng, cơm lam… Tuy cách trung tâm huyện lỵ chừng 10km, nhưng rất lâu rồi bà con đã tự trồng rau ăn phục vụ nhu cầu cuộc sống hàng ngày và góp phần vào việc phát triển du lịch cộng đồng.
Để giữ gìn các làn điệu dân ca, dân vũ, đặc biệt là điệu múa xòe và lăm vông; đã hơn 10 năm nay, người dân trong bản thành lập đội văn nghệ với sự đóng góp công sức của 20 thành viên, thường xuyên mang lời ca tiếng hát để động viên, cổ vũ tinh thần lao động, cầu cho mưa thuận gió hòa, xây dựng cuộc sống văn hóa ở bản làng.
Các điệu múa xòe, múa trống cùng với việc sử dụng các nhạc cụ truyền thống dân gian như: Trống, chiêng, khèn bè, sáo thường xuyên được tổ chức, đặc biệt là vào dịp Lễ hội Bun Vốc Nặm (còn gọi là Lễ hội Té nước). Để có hàm răng đen bóng, chắc khỏe, mỗi buổi sáng sau khi thức dậy, buổi tối trước khi đi ngủ phụ nữ Lào lại dùng bột cây “mày tỉu” – một sản phẩm từ rừng được hơ nóng và chà lên răng. Bên cạnh đó, người phụ nữ dân tộc Lào còn duy trì tục lệ ăn trầu.
Bản Hon
Nằm cách thành phố Lai Châu 20km, trên tuyến du lịch “Vòng cung Tây Bắc, đường đi thuận lợi cộng với nguồn tài nguyên du lịch nhân văn độc đáo, Bản Hon đang dần trở thành một điểm du lịch cộng đồng ở Lai Châu ưa thích của rất nhiều du khách trong và ngoài nước.
Điểm du lịch văn hóa cộng đồng Bản Hon nằm trên xã Bản Hon gồm Bản Hon 1 có gần 90 hộ và Bản Hon 2 có gần 70 hộ sinh sống. Đây là nơi cư trú của cộng đồng dân tộc Lự và Mông, trong đó, dân tộc Lự chiếm 90%. Điểm đặc trưng ở Bản Hon là nơi đây vẫn còn lưu giữ nguyên vẹn bản sắc văn hóa phong phú, đặc sắc, tiêu biểu là kiến trúc nhà ở, ẩm thực, trang phục và nghề thủ công truyền thống của đồng bào Lự.
Với chủ trương phát triển du lịch cộng đồng nhưng không làm mất đi nét đẹp văn hóa bản làng truyền thống, du lịch văn hóa cộng đồng Bản Hon được hình thành hy vọng sẽ trở thành một trong những điểm đến hấp dẫn du khách trong và ngoài nước ở Lai Châu.
Sì Thâu Chải
Bản du lịch cộng đồng Sì Thâu Chải xã Hồ Thầu cách trung tâm huyện Tam Đường chừng 6 km, nằm ở độ cao 1400m, là nơi sinh sống của hơn 60 hộ dân với 100% là người Dao đầu bằng sinh sống. Với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, không khí trong lành cùng với những phong tục tập quán độc đáo của người dân nơi đây, bản Sì Thâu Chải đã trở thành một điểm đến hấp dẫn ở Tam Đường
Nùng Nàng
Cách thành phố Lai Châu chỉ 3km, Nùng Nàng hiện ra sau con dốc uốn lượn. Đây là xã gần như 100% đồng bào Mông sinh sống thuộc huyện Tam Đường, vẫn giữ được nét hoang sơ về cảnh quan cũng như phong tục tập quán. Ngay từ trung tâm xã bạn đã có thể cảm nhận 1 thế giới đối lập với cuộc sống phồn hoa đô thị, những nếp nhà đơn sơ, những sắc váy thổ cẩm, những bờ dậu đá rào quanh những nương cải vàng, nương ngô, ruộng lúa. Nếu muốn khám phá những nơi hoang sơ hơn bạn hãy vào trường học hoặc hỏi thăm người dân đường đi vào những điểm bản nằm sâu trong núi đá tai mèo bên rừng già nguyên sinh vô cùng lãng mạn.
Thác Tác Tình
Tác Tình” từ xưa đến nay vẫn được người dân gọi bằng cái tên thân thương như vậy, nó gắn liền với đời sống vật chất cũng như văn hoá bản địa thường ngày của đồng bào. “Tác Tình” không chỉ đơn giản là tên một con thác mà còn là một truyền thuyết mang âm hưởng tình ca của một đôi trai gái yêu nhau
Không biết từ bao giờ tên gọi “Tác Tình” đã hình thành và tồn tại trong tiềm thức của từng cư dân người Dao nói riêng và tất cả mọi người dân nơi đây nói chung.Theo tiếng Dao thì tác có nghĩa là nước từ trên cao đổ xuống, tình có nghĩa là nước từ trên thác đổ xuống tạo thành một vũng nước trên mặt đất (giống như một hồ nhỏ).
Truyền thuyết kể lại rằng “Xưa kia, từ lâu lắm rồi không ai còn nhớ vào thời gian nào, tại một bản người dân tộc Dao dưới chân thác có một nàng Lở Lan xinh đẹp, vẻ đẹp của nàng được ví như những đoá Lan rừng – đẹp và ngào ngạt hương thơm. Nàng đem lòng yêu một chàng trai trong bản, cả hai thương nhau và quấn quýt như con hươu, con nai trên rừng bên nhau sớm tối. Nhưng hạnh phúc không được bao lâu thì tai hoạ đã ập xuống đầu hai người, tình yêu của họ đã gặp muôn vàn trắc trở, trông gai vì bị kẻ gian âm mưu hãm hại chia cách, không thể nên duyên chồng vợ. Để giữ trọn tình yêu thuỷ chung của mình và lời thề ước giữa hai người, nàng Lở Lan đã trẫm mình xuồng dòng thác. Cảm phục trước hành động của cô gái trẻ, người dân nơi đây đã đặt tên cho ngọn thác là thác Tác Tình để tưởng nhớ đến cô cùng với mong ước tác hợp cho chuyện tình của hai người”
Động Tiên Sơn
Động Tiên Sơn nằm gần kề trên quốc lộ 4D, thuộc địa phận xã Bình Lư, Tam Đường. Nói đến quần thể động là nói đến một chuỗi liên hoàn có tên động xưa là “Đà Đón” hiểu theo tiếng phổ thông là Hang Đá Trắng vì ngay cửa động có vách đá màu trắng, động gồm 49 khoang (49 cung) nối tiếp nhau chạy dài thông qua hai sườn núi, càng đi vào sâu thì cung càng lớn, trong động có nhiều thạch nhũ với những hình thù khác nhau, điều đặc biệt là trong động có dòng suối trong vắt chảy qua, uốn lượn quanh trong lòng động tạo cho du khách cảm giác nhẹ nhàng, thư thái, thoải mái.
Tả Liên Sơn
Tả Liên Sơn hay Cổ Trâu là đỉnh núi cao ở khu vực xã Tả Lèng, huyện Tam Đường. Tả Lèng là một xã miền núi khó khăn của huyện Tam Đường dù chỉ nằm cách trung tâm tỉnh Lai Châu chừng 10 km. Cộng đồng dân cư ở đây gồm 3 dân tộc chính là Kinh, Mông và Dao. Có lẽ vì từ bản nhìn lên, đỉnh núi cao vời vợi, kiêu hãnh như sống lưng của loài trâu mộng sống trong khu rừng nguyên sinh dưới chân núi nên Tả Liên Sơn còn có tên gọi khác là Cổ Trâu.
Pu Ta Leng
Nằm trong dãy Hoàng Liên Sơn thuộc xã Tả Lèng, huyện Tam Đường. Pu Ta Leng theo tiếng H’Mông gọi là Pú Tả Lèng, với chữ “Pú” nghĩa là núi. Với chiều cao 3.049m so với mặt nước biển, chỉ đứng sau đỉnh Fansipan (3.413m), Pu Ta Leng còn được mệnh danh là “nóc nhà thứ hai của Đông Dương”, cũng gọi “nóc nhà thứ hai của Việt Nam”.
Thành phố Lai Châu
Bản San Thàng
Đây là địa bàn cư trú của khoảng 70 hộ gia đình người Giáy với những nét văn hóa đậm đà bản sắc. Lối kiến trúc cảnh quan lạ, hấp dẫn với hàng rào đá bao quanh, bản San Thàng 1 là một điểm đến không thể bỏ qua mỗi khi du khách đến với thành phố Lai Châu. Đến với San Thàng vào thứ 5 và chủ nhật, du khách sẽ được tham gia vào phiên chợ đặc trưng của vùng cao – Chợ phiên San Thàng. Không chỉ là nơi trao đổi mua bán các nông sản vật của bà con nhân dân mà còn là nơi sinh hoạt văn hóa cộng đồng, gắn kết tình cảm của đồng bào các dân tộc trên địa bàn thành phố Lai Châu.
Pu Sam Cap
Là một quần thể gồm nhiều hang động nằm trên hệ thống núi Pu Sam Cap có độ cao từ 1.300m đến 1.700m so với mực nước biển, trên tỉnh lộ 129 nối thành phố Lai Châu với huyện Sìn Hồ, cách trung tâm thành phố chừng 05 km bao gồm 3 hang động lớn là: Thiên Môn, Thiên Đường và Thủy Tinh. Vẻ đẹp nguyên sơ của nó khiến nhiều người ngỡ ngàng
“Sam” theo tiếng Thái có nghĩa là “ba” nên nơi đây còn được gọi là “núi ba hòn”. Địa danh này đang ngày càng dược nhiều người biết đến không chỉ bởi sự hùng vĩ, hoành tráng mà còn bởi dấu tích gắn liền với sự hình thành và phát triển của vùng đất Phong thổ, Tam đường, gắn với quá trình định cư của người Thái, những cuộc thiên di của người H’Mông và những sự tích huyền thoại về qua trình khai thiên, lập địa.
Truyền thuyết kể rằng: “Ải Sái Hịa là người nhà trời, được Then sai xuống để khai khẩn đất hoang. Ải mang theo bò chín ngàn bướu, trâu chín ngàn vai. Ải khai phá đất hoang thành ruộng lúa. Mỗi cánh đồng cách nhau mấy chục ngày đường. Buổi sáng Ải nhổ mạ ở Mường Thanh, trưa về ăn com ở Mường Lò, chiều đi cấy ở Mường Tấc, Mường Than, đến tối lại bắc bếp đồ cơm ở vùng 99 ngọn núi này. Dãy Pusamcap chính là dấu tích của ba hòn đầu rau Ải làm ngày ấy.
Quần thể thắng cảnh pusamcap là một sản phẩm kì vĩ của tạo hoá, với cảnh sắc vừa thơ mộng quyến rũ, vừa kì bí huyền ảo nhưng cũng không kém phần tráng lệ nguy nga. Nhưng không chỉ có vậy, Pusamcap có sức lôi cuốn lòng người bởi một chuyện tình buồn được người dân nơi đây truyền miệng qua bao đời.
Câu chuyện kể về một người con gái đẹp tên là Thị Lài. Thị Lài vừa đến tuổi trăng tròn. Khuôn mặt nàng đẹp lắm, đẹp như bông Ban rừng đầu xuân khi còn e ấp. Tóc nàng dài, sóng sánh như thác nước mùa xuân, giọng nàng trong như tiếng chim rừng tinh nghịch, ríu rít gọi bạn trên cành cây cổ thụ. Trai bản say đắm nàng, ngây ngất nàng nhưng trái tim nhỏ bé, nóng bỏng của nàng đã tìm được nơi trú ngụ. Chàng là một người con trai khôi ngô, khoẻ mạnh và dũng mãnh. Nhà chàng nghèo nhưng chàng có một trái tim giàu yêu thương và hai người yêu nhau tha thiết. Họ như con nai, con hoẵng non, cứ mải mê vui đùa quên ngày tháng. Quên ngày trăng mọc rồi trăng lại lặn. Quên mất ngày con nước độc ác từ đầu nguồn đã tràn xuống cuốn trôi hết nương ngô, ruộng lúa của dân bản. Những ngôi nhà vốn đã xác sơ không thể đứng vững được trước con nước dữ. Cha mẹ nàng vì cái nhà rách, cái bụng đói mà đã nhận con trâu, gùi thóc của tên trưởng bản tham lam, độc ác. Hắn vốn đã để ý nàng từ lâu nhưng không đeo bám được, nay có vẻ như hắn đã được thoả lòng tham ấy Thị Lài buồn lắm. Nàng khóc nhiều, đến nỗi khuôn mặt đẹp kia phải héo hon, đôi mắt đẹp kia khô không còn giọt lệ. Thương người yêu, chàng trai đã liều lĩnh dẫn nàng cùng chốn. Bạt ngàn rừng núi thế này không lẽ không có chỗ cho hai người nương náu? Cảm thông cho cuộc tình đẹp nhưng ngang trái thần rừng, thần núi cũng thương họ. Tạo hoá đã đặt giữa núi rừng Tây Bắc một ngôi nhà bằng đá được cánh rừng Móc che chở. Trong ngôi nhà đá ấy có cả thác nước cho họ uống, giường cho họ nằm, cái trống, cái nôi có lọng che để cho những đứa con trong tương lai, có cả chày, cối cho họ giã những hạt thóc, hạt ngô thành tấm bánh. Họ còn tìm được cả nơi thiêng liêng nhất để tỏ lòng cảm tạ thần núi thần cây. Cuộc sống cứ thế trôi qua êm ả trong hạnh phúc. Hàng ngày Thị Lài ở lại động để chăm sóc con cái, nấu cơm chờ chồng đi săn về. Chồng nàng săn bắn rất giỏi, sự khéo léo, dũng mãnh của chàng khiến cho con voi rừng, con sư tử dữ cũng phải thuần phục chàng, chúng kéo tới đây ngay nơi cửa động để ngày ngày canh giữ, bảo vệ nơi tổ ấm của họ. Nhưng một ngày kia, lúc người chồng yêu thương của Thị Lài đang mải mê theo con thú hoang. Không biết con rắn độc đưa đường hay con cáo gian ác chỉ lối mà tên trưởng bản xấu xa kia tìm được đến đây. Hắn mang theo rất nhiều quân lính. Bọn chúng đông và dữ tợn đến nỗi con voi lớn, con sư tử hung dữ cũng bị chúng giết chết. Thị Lài vô cùng sợ hãi, những đứa con khóc thét lên ôm chầm lấy mẹ trong nức nở. Không biết phải làm sao, nàng đứng chết lặng hướng về nơi ban thờ mà cầu nguyện. Nỗi lòng nàng thấu đến trời xanh. Ngay lúc ấy, mây đen kéo đến, trời đất tối đen như mực, sấm chớp vang trời. Tên trưởng bản và đám tuỳ tùng của hắn vô cùng sợ hãi. Đứa chốn dưới gốc cây, đứa chui vào hang đá. Chỉ giây lát rồi mọi thư bình yên trở lại. Nhưng than ôi chỉ có mẹ con Thị Lài và tổ ấm của họ thì đều hoá thành đá cả, cả con voi, con sư tử, cả thác nước cũng hoá đá. cuộc sống của nàng đã trở thành vĩnh cửu. Không ai bắt được nàng, không ai hại được Thị Lài nữa.
Không ai biết được thực hư câu chuyện thế nào, nhưng ngày hôm nay, khi đến với Pusamcap ai cũng như nhìn thấy bóng dáng Thị Lài bồng con đứng chết lặng, nghe thấy tiếng nàng khóc trong trong nỗi bất lực trước những thế lực của một thời phong kiến, nô bộc.
Bản Gia Khâu 1
Bản văn hóa du lịch Gia Khâu 1, thuộc xã Nậm Loỏng, Tp Lai Châu. Cách trung tâm chừng 10km, là một thung lũng nhỏ, bao bọc xung quanh là các dãy núi cao. Với 100% dân số là dân tộc Mông Trắng, với những nét văn hóa truyền thống, phong tục tín ngưỡng độc đáo như Lễ hội Grâu Taox, phong tục cưới hỏi,… Từ trang phục, nếp nhà truyền thống, làn điệu khèn, dân vũ…đến ẩm thực truyền thống, nghề dệt thổ cẩm đều mang đến cho du khách những trải nghiệm thú vị và ấn tượng khó quên…
Tân Uyên
Đồi chè Tân Uyên
Được trải dài dọc theo quốc lộ 32, chè có tuổi đời từ 40 – 50 năm với quy mô gần 2000 ha, nằm cách trung tâm thị trấn Tân Uyên không xa, đồi chè tân Uyên hiện là điểm đến yêu thích của nhiều người khi đến với Tân Uyên. Tới đây bạn sẽ được tận hưởng cảnh vật và thiên nhiên trong lành. Đây cũng là nơi nhiều người chọn để chụp ảnh cưới, hoặc thực hiện một bộ ảnh lãng mạn trong đồng chè xanh mướt, giữa lấp lánh nắng vàng. Chè cũng là một trong những cây kinh tế chính của thị trấn với sản phẩm chè nổi tiếng khắp cả nước như chè San Tuyết, Ô long, Thanh Tâm….
Bản Phiêng Phát
Quần thể danh lam thắng cảnh Phiêng Phát thuộc địa phận xã Trung Đồng huyện Tân Uyên được công nhận là công nhận là danh lam thắng cảnh cấp tỉnh. Nằm ẩn mình trong núi đá vôi được che chở bởi những cánh rừng nhiệt đới, quần thể danh lam thắng cảnh Phiêng Phát đã thực sự trở nên nổi tiếng bởi sự hào phóng của tạo hoá đã ban tặng cho vùng đất này.
Suối nước nóng Phiêng Phát
Suối nước nóng Phiêng Phát nằm trong khu vực quần thể danh lam thắng cảnh Phiêng Phát. Suối có 2 điểm có nước nóng, lưu lượng nước ổn định đạt 5l/s, Suối nước nóng nằm cách trung tâm huyện khoảng 6km. Hiện nay, số lượng người dân trên địa bàn huyện và ở địa phương khác đến tắm tại suối nước nóng ngày càng tăng, số lượng người tắm thường tăng cao vào khoảng tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau.
Than Uyên
Đèo Khau Cọ
Di tích đèo Khau Cọ nơi nghĩa quân Mường Lay, Mường Khoa ở địa phương chặn đánh bọn thực dân Pháp kịch liệt ngày 20/11/1886 khi chúng tấn công lên huyện Lai Châu, mở màn phong trào đấu tranh anh dũng đầy hy sinh gian khổ, tìm hiểu lòng yêu nước nồng nàn, ý chí quật cường chống giặc ngoại xâm của nhân dân các dân tộc Lai Châu. Đây từng là nơi đóng quân của trung đoàn 2 mở đường 279 trong cuộc chiến tranh biên giới 1979, nơi đây còn có nhiều vết tích của lần mở đường khi đó (Những đoạn đường mở sai trên vách núi). Từ đây có thể quan sát hầu hết cánh đồng Mường Than, là cánh đồng lớn thứ ba của vùng tây bắc.
Cánh đồng Mường Than
“Nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc”. Cánh đồng Mường Than của huyện Than Uyên đứng thứ 3 trong số 4 vựa lúa lớn nhất của các tỉnh miền núi phía Bắc với tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp lên tới 2000 ha.
Phong Thổ
Cao nguyên Dào San
Dào San nằm cách trung tâm thành phố Lai Châu chừng 60km về phía Bắc, là nơi cư trú chủ yếu của các dân tộc Mông, Dao, Thái, Hà Nhì… Ấn tượng của du khách về Dào San là những cánh rừng xanh ngút ngàn, những đồi thảo quả trải dài đến vô tận, những con đường nhiều tầng xuyên qua mây trắng những dòng suối róc rách chảy, những thửa ruộng bậc thang leo lên đỉnh núi… Không chỉ thế, khách du lịch còn có dịp trải nghiệm văn hóa vùng cao qua phiên chợ Dào San. Chợ được họp vào chủ nhật hàng tuần, đây cũng là phiên chợ mang đậm nét văn hóa chung của vùng cao Tây Bắc, nơi giao thoa những giá trị của bản sắc văn hóa truyền thống Việt.
Suối nước nóng Vàng Pó
Suối nước nóng Vàng Pó nằm trong bản Vàng Bó thị trấn Phong Thổ, một bản làng bình yên, nằm bên quốc lộ 4D. Suối nước nóng Vàng Pó gắn với cụm điểm du lịch Mường So và khu kinh tế cửa khẩu Ma Lù Thàng, được xếp vào nhóm điểm du lịch có ý nghĩa địa phương: độc đáo, có khả năng thu hút khách du lịch.
Cửa khẩu Ma Lù Thàng
Cửa khẩu Ma Lù Thàng thuộc xã Ma Li Po, huyện Phong Thổ. Ma Lù Thàng được coi là mũi nhọn để thúc đẩy nền kinh tế của huyện. Ma Lù Thàng là cửa khẩu cách các trung tâm kinh tế trong nước khá xa, chỉ có thể vận chuyển hàng hoá bằng đường bộ. Một tồn tại của cửa khẩu nữa là hệ thống giao thông khá yếu chưa đáp ứng được các xe trọng tải lớn.
Chợ Sừng Sì Lờ Lầu
Sì Lờ Lầu, theo tên gọi của đồng bào Dao đỏ nghĩa là “12 tầng dốc”, cao so với mặt nước biển khoảng 2.000 m, mở mắt ra là đụng núi vướng mây và xa tít xa tắp nên rất ít người, kể cả người bản địa Lai Châu biết đến địa danh này.
Chợ nằm ở xã chót cùng trong vòng cung 8 xã biên giới của huyện Phong Thổ chỉ cách biên giới một km. Gọi là chợ Sừng bởi chợ họp vào ngày hai con vật có sừng trong 12 con giáp là con dê (ngày Mùi) và con trâu (ngày Sửu). Vậy là cứ sáu ngày chợ họp một lần. Nếu tính theo tuần, thì chợ họp lùi ngày, thí dụ tuần trước họp chủ nhật, thì tuần sau họp vào thứ bảy, rồi lại thứ sáu tuần sau nữa cứ lùi vòng quanh như thế. Chợ ở nơi xa xôi nên còn giữ được nét nguyên sơ. Ở đây chủ yếu là người Hà Nhì, Dao Đỏ, Mông đến mua, bán, trao đổi hàng hoá và giao lưu.
Thác Trái Tim
Ẩn mình dưới những tán cây cổ thụ, uốn lượn giữa núi non trùng điệp với phong cảnh hữu tình, thác Trái Tim nằm trên địa phận xã Sin Suối Hồ huyện Phong Thổ cách trung tâm thành phố Lai Châu chừng 32 km đã khiến không ít người “mê đắm” bởi vẻ đẹp non nước.
Chuyện xưa kể lại rằng: Tại một bản người dân tộc Mông dưới chân thác có một chàng trai khôi ngô, dũng mãnh giỏi săn bắt đem lòng yêu một cô gái xinh đẹp giỏi thêu thùa may vá, cả hai quấn quýt và thương yêu nhau tha thiết như con hươu, con nai trên rừng ngày ngày bên nhau. Cả bản ai cũng ngưỡng mộ tình yêu của đôi trai tài gái sắc.
Cả hai say sưa trong chén men tình không được bao lâu thì chàng trai phải lên đường đi đánh giặc, nàng chờ chàng không biết bao mùa trăng mọc rồi trăng lặn mà vẫn chưa thấy chàng về. Rồi nàng hay tin chàng đã tử trận tại chiến trường xa xôi. Quá đau buồn, nàng tìm đến nơi ngày xưa họ thường hay hẹn ước khóc thương chàng rồi nàng hóa thành thác nước.
Thấm thoát thời gian qua đi, cả bản ngỡ ngàng khi thấy chàng thắng trận trở về, hóa ra tin chàng chết nơi chiến trận chỉ là lời đồn ác miệng của quân giặc. Biết chuyện đau buồn về người yêu, chàng trai lên đỉnh ngọn thác kêu gào thét thảm thiết, tiếng gào thét như xé rách núi rừng, cầu xin núi rừng hãy để họ mãi bên nhau muôn đời, muôn kiếp.
Cảm động trước tình yêu đôi lứa, đất trời đã biến chàng thành tảng đá hình trái tim nằm ngay giữa thác nước, để đôi tình nhân được ở bên nhau mãi mãi.
Dân làng cũng xem ngọn thác này là biểu trưng cho tình yêu đôi lứa trong bản, là câu chuyện tình yêu đẹp đẽ mà dân làng truyền lại cho con cháu và say sưa kể
Đỉnh núi Bạch Mộc Lương Tử
Đỉnh Bạch Mộc Lương Tử thuộc địa phận xã Sin Suối Hồ, Phong Thổ. Với độ cao 3.045m so với mực nước biển, Bạch Mộc Lương Tử là một trong 5 ngọn núi cao nhất Việt Nam và Đông Nam Á trên địa bàn tỉnh Lai Châu. Chinh phục Bạch Mộc Lương Tử luôn là một thách thức nhưng cũng đầy hấp dẫn đối với các phượt thủ. Không phải là đỉnh núi cao nhất, nhưng Bạch Mộc Lương Tử được biết đến là đỉnh núi có cảnh quan đẹp nhất, và cung đường khám phá thú vị nhất.
Xem thêm bài viết: Kinh nghiệm chinh phục Bạch Mộc Lương Tử (Cập nhật 11/2024)
Bản Vàng Pheo
Bản Vàng Pheo thuộc xã Mường So, huyện Phong Thổ. Đây là vùng đất sinh sống lâu đời của đồng bào dân tộc Thái trắng. Dân bản Vàng Pheo mến khách, cảnh sắc núi rừng thơ mộng, nên đã cuốn hút biết bao du khách đến với nơi này.
Nằm cách trung tâm thành phố Lai Châu khoảng 30km, bản Vàng Pheo hiện lên trong một chiều nắng thật đẹp. Bản có vị trí thiên thời, địa lợi, nằm ngay bên núi Phu Nhọ Khọ, ngọn núi được ví như một mĩ nhân. Đây là nơi giao thoa giữa hai dòng suối Nậm So và Nậm Lùm. Vàng Pheo có nhiều ngôi nhà cổ nằm nép mình bên những ruộng lúa xanh trong không gian thanh bình, yên tĩnh.
Bản Vàng Pheo là nơi còn lưu giữ nhiều ngôi nhà sàn cổ, một nét đặc biệt làm nên bản văn hoá. Người Thái trắng ở Vàng Pheo rất hiếu khách. Trẻ em thì lễ phép, người già thì ôn hoà, họ sẵn lòng mời khách dùng cơm, thưởng thức những bữa ăn giản dị, món ăn truyền thống và mang đậm bản sắc riêng như: cá bống vùi tro, cá suối nướng, măng đắng, măng ngọt, thịt trâu sấy, thịt lợn hấp, canh rau đắng và uống rượu bên bếp lửa bập bùng ấm áp.
Bản Vàng Pheo cũng là nơi có nhiều lễ hội, lưu giữ nhiều nét sinh hoạt văn hoá cộng đồng. Mỗi lễ hội có một bản sắc riêng như lễ hội: Nàng Han (rằm tháng 2 âm lịch), Then Kin Pang (mùng 10/3 âm lịch), Kin Lẩu Khẩu Mẩu (rằm tháng 9 âm lịch) Lễ hội bản Vàng Pheo có nhiều trò chơi dân gian độc đáo như: ném còn, đẩy gậy, tù lu. Vào những ngày cuối tuần hoặc dịp lễ hội, du khách đổ về đây rất đông để khám phá một không gian Tây Bắc êm đềm và cuộc sống giản dị của đồng bào dân tộc, được hoà mình trong điệu múa, lời ca của đồng bào mà “say tình”, ngây ngất với sắc màu của vùng cao.
Sìn Hồ
Cách thành phố Lai Châu chừng 60km về phía Tây theo đường quốc lộ 4D, Sìn Hồ là huyện vùng cao nằm giữa tỉnh Lai Châu, có huyện lỵ là thị trấn Sìn Hồ. Huyện Sìn Hồ có 56.000 cư dân gồm 15 dân tộc cùng chung sống trên diện tích 1.746km². Về mặt địa lý, Bắc Sìn Hồ giáp Vân Nam (Trung Quốc), Đông giáp huyện Phong Thổ, Nam giáp huyện Tủa Chùa (Điện Biên) và Tây giáp huyện Mường Tè.
Theo tiếng bản địa, “Sìn Hồ” là nơi tập trung nhiều con suối. Ở độ cao 1.500m so với mực nước biển, cao nguyên Sìn Hồ được ví như nóc nhà của tỉnh Lai Châu. Nơi đây khí hậu khá giống với thị trấn Sa Pa, quanh năm mát mẻ tạo điều kiện cho nhiều giống hoa, quả ôn đới như mận, đào, lê… phát triển.
Trong vài năm gần đây, tại khu 2 thị trấn Sìn Hồ có dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho du khách, đó là dịch vụ tắm lá thuốc, xoa bóp và bấm huyệt do người dân địa phương cung cấp. Dung dịch để ngâm tắm là một loại nước có màu đen sánh được nấu từ 10 loại cây thuốc hái từ trên núi, trong đó có gừng và sả là có thể trồng ngay tại vườn nhà. Khách sẽ được mời vào một căn phòng nhỏ, trút bỏ xiêm y rồi ngồi ngâm mình ngập đến tận cổ trong dung dịch nước thuốc nóng chừng 40º, được chứa trong một chiếc thùng gỗ, có mùi thơm nồng ngai ngái.
Xem thêm bài viết: Kinh nghiệm du lịch Sìn Hồ (Cập nhật 11/2024)
Núi Đá Ô và Động Ông Tiên
Núi đá Ô là di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh, nằm trên địa phận xã Tả Phìn huyện Sìn Hồ, gắn với sự tích của người Dao Khâu kể về Ông Tiên xuống hạ giới du ngoạn để quên cái ô, qua thời gian cái ô hóa thành đá. Núi Đá Ô là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của bà con dân bản, nơi mà người dân thường thắp hương cầu nguyện đặt các lễ vật để dâng cúng cầu mong mùa màng bội thu, người người khỏe mạnh…nằm gần khu vực Núi Đá Ô là Động Ông Tiên, động có nhiều thạch nhũ với hình thù kỳ lạ được hình thành do kiến tạo địa chất từ hàng nghìn năm.
Nậm Nhùn
Các di tích dưới đây trước kia thuộc Thị xã Lai Châu cũ (thời điểm chưa tách tỉnh), sau đó thuộc huyện Sìn Hồ của Lai Châu (mới). Năm 2012, huyện Nậm Nhùn được thành lập, các xã Lê Lợi và Pú Đao từ Sìn Hồ được chuyển về Nậm Nhùn.
Bia Lê Lợi và đền thờ vua Lê
Bia Lê Lợi nằm giữa ngã ba sông nơi giao nhau của dòng Nậm Na và con sông Ðà hùng vĩ tại xã Lê Lợi. Vào đầu thế kỷ XV tại vùng đất này tù trưởng châu Ninh Viễn (Lai Châu ngày nay) là Ðèo Cát Hãn đã hai lần làm phản câu kết với giặc Minh âm mưu chia cắt miền đất phía Tây (có Lai Châu) và lệ thuộc vào nhà Minh. Khi đó nhà Lê có chính sách khoan hồng và mềm dẻo nhưng Cát Hãn đã bất chấp và còn tăng cường đánh chiếm mở rộng xuống tận Mường Muổi (thuộc tỉnh Sơn La ngày nay) gây bao đau thương và tội ác cho người dân Tây Bắc. Sau khi cùng với quân dân cả nước đánh tan cuộc chiến tranh xâm lược của giặc Minh (1428) và sau đó năm 1431 Lê Lợi đã cầm quân dọc sông Ðà lên dẹp yên tù trưởng Cát Hãn làm phản và chấm dứt sự ảnh hưởng của nhà Minh, thống nhất bờ cõi đất nước. Sau khi thắng trận (tháng 1.1432) Lê Lợi đã khắc bút tích trên bia đá (bia Lê Lợi) nhằm răn đe những kẻ làm phản nơi phên giậu của Tổ quốc, khẳng định chủ quyền và thống nhất quốc gia lúc bấy giờ.
Bọn giặc cuồng sao dám trốn tránh. Tội đáng giết.
Dân ngoại biên đã từ lâu đợi ta đến cứu sống.
Kẻ bầy tôi làm phản từ xưa vẫn có.
Ðất đai hiểm trở từ nay không còn (bọn chúng nữa).
Hình bóng cây và tiếng gió thổi, hạc kêu cũng làm quân giặc kinh sợ.
Non sông này nhập vào một bản đồ, đề thơ khắc lên núi đá.
Chắn giữ bờ tây nước Việt ta.
Khi công trình thủy điện Sơn La khởi công Bia Lê Lợi đã được di dời cùng với việc xây mới đền thờ nhà vua tại vị trí cách bia cũ 500m nhưng cao hơn 150m, thuộc địa phận xã Lê Lợi, huyện Nậm Nhùn (trước kia thuộc Sìn Hồ).
Di tích vua Thái – Đèo Văn Long
Dinh thự Đèo Văn Long nằm ở ngã tư nơi gặp nhau của con sông Đà, sông Nậm Na và suối Nậm Lay. Trước kia thuộc phường Lê Lợi, Thị xã Lai Châu (cũ) sau khi tách Lai Châu thành hai tỉnh Lai Châu và Điện Biên, dinh thự Đèo Văn Long thuộc xã Lê Lợi, huyện Nậm Nhùn (trước đây thuộc Sìn Hồ).
Theo các tài liệu, Đèo Văn Long là con của Đèo Văn Trị, cai quản mười hai xứ Thái (Sipsong Chuthai). Cuối thế kỷ XIX, Đèo Văn Trị hưởng ứng Hịch Cần Vương, lãnh đạo sắc tộc Thái và một số dân tộc khác vùng Lai Châu nổi dậy chống Pháp. Sau bị dụ dỗ, Đèo Văn Trị đầu hàng Pháp, mở đường cho chúng tiến vào Mường Thanh, được Pháp khôi phục quyền cai trị vùng đất Sipsong Chuthai bên bờ sông Đà, cho phép cha truyền con nối.
Được sự hỗ trợ của Pháp, Đèo Văn Long lên nắm quyền cai trị thay cha, ra sức vơ vét của cải, buôn bán thuốc phiện, lâm thổ sản, hàng hóa, tổ chức những đoàn thuyền lớn lấy sông Đà làm tuyến giao thông chính giao thương với vùng đồng bằng sông Hồng, trở thành người giàu có nhất vùng.
Dinh thự Đèo Văn Long được xây dựng tại nơi 3 con sông gặp nhau, một vị trí hiểm yếu, sau lưng là núi cao trước mặt là sông rộng, ở vị trí yết hầu đó có thể khống chế được con đường lên Phong Thổ, Sa Pa, Mường Tè và xuôi về Hòa Bình cũng như qua ngả Điện Biên sang Lào. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Đèo Văn Long mang vợ con chạy sang Pháp. Dinh thự của Đèo Văn Long không có người ở, lâu ngày đã bị đổ nát, trở thành phế tích.
Những gì còn sót lại cho thấy kiến trúc của khu nhà là kết hợp giữa kiến trúc nhà sàn của người Thái với kiến trúc của người Pháp. Khu nhà chính được xây hai tầng bằng gạch đỏ, sàn gỗ, xung quanh ngôi nhà chính là những khu nhà nhỏ dành cho người ở và binh lính, xung quanh là tường bao xây bằng gạch và đá dày trên 40cm, có nhiều lỗ châu mai, cao trên 3m. Trước khu nhà có sân rộng để múa xòe khi tổ chức tiệc tùng. Mái lợp ngói tách ra từ những phiến đá, người dân gọi là đá giấy, lúc mới tách đá mềm có thể dùng dao cắt được, nhưng khi gặp nắng đá trở nên cứng như sành.
Trước đây, tỉnh Lai Châu có dự kiến trùng tu dinh thự Đèo Văn Long, nhưng khi thủy điện Sơn La tích nước vào tháng 10/2010, thì toàn bộ khu dinh thự Đèo Văn Long đã ngập dưới lòng hồ.
Bản Pú Đao
Pú Đao là một xã vùng cao thuộc huyện Nậm Nhùn (trước đây thuộc Sìn Hồ) cách thị trấn Mường Lay 13 km và Hà Nội hơn 560 km về phía Tây Bắc. Dù địa thế xa xôi, hẻo lánh nhưng với cảnh quan thiên nhiên hoang sơ, thuần khiết, Pú Đao khá phù hợp cho những ai đam mê khám phá những vùng đất mới.
Pú Đao theo tiếng H’Mông có nghĩa là “điểm cao nhất”, nằm chót vót trên núi cao, vắt ngang mình trên những con đèo ngoằn ngoèo, hiểm trở. Để đến được Pú Đao, phải đi qua cầu Lai Hà bắc ngang một phụ lưu của sông Đà. Từ đây bạn sẽ thấy bên kia bờ là những ngôi nhà sàn người Thái ẩn mình dưới hàng dừa, khói bốc lên từ mái nhà, len lỏi qua các tán lá và tản mát vào làn sương mờ ảo.
Từ cầu Lai Hà đến Pú Đao còn khoảng 24 km đường mòn xoắn ốc với những khúc cua nghẹt thở, xuyên giữa khu rừng đầy những chồi tre và bụi rậm đan xen dày đặc. Trước đây khi qua cầu khoảng 5km, bạn sẽ bắt gặp dinh thự vua Thái Đèo Văn Long, là một phế tích lịch sử của một dinh thự lớn lộng lẫy xa xưa nhưng hiện nay đã nằm sâu dưới lòng hồ thủy điện Sơn La.
Khi lên đến “điểm cao nhất” ở Lai Châu cũng là lúc bạn đến với điểm ngắm sông Đà đẹp nhất. Từ đây, bạn còn nhìn thấy những thung lũng ngoạn mục phía dưới, là nơi giao cắt giữa sông Đà và sông Nậm Na với bãi bồi xanh ngát. Sau những phút giây nhìn lại chặng đường đã đi, tuyệt cảnh Pú Đao hiện ra trước mắt với những bản làng nằm cheo leo trên đỉnh núi, xuyên giữa là những con đường quanh co, uốn khúc, một bên là vách núi dựng đứng, một bên là vực sâu thăm thẳm.
Xã Pú Đao gồm 4 bản người Mông là Hồng Ngài, Nậm Đoong, Nậm Đắc và Hồng Tý. Bạn có thể sẽ nhầm tên bản Hồng Ngài, trung tâm xã Pú Đao với xã Hồng Ngài, Bắc Yên, Sơn La hoặc bản cùng tên ở Y Tý, Bát Xát, Lào Cai. Không chỉ có sân bay dã chiến do người Pháp xây dựng mà Hồng Ngài, Pú Đao ngày nay còn những con đường bê tông kiên cố, sạch sẽ giúp ôtô, xe máy đi lại dễ dàng hơn.
Khác với Hồng Ngài, chỉ có xe máy mới vào được Nậm Đoong. Nằm trên điểm cao nhất và đẹp nhất Pú Đao, Nậm Đoong là điểm trekking lý tưởng khi con đường vào bản đi qua những thung lũng chân mây, xung quanh bạt ngàn hoa dại và nương rãy xanh tươi. Hiện nay trong bản cũng chỉ còn vài hộ dân ở lại, toàn bộ cư dân xã đã chuyển ra phía trung tâm huyện để sinh sống.
Nhà máy Thủy điện Lai Châu
Thủy điện Lai Châu là công trình trọng điểm quốc gia Việt Nam được khởi công xây dựng vào ngày 5/1/2011 tại xã Nậm Hàng huyện Mường Tè (nay xã Nậm Hàng được chuyển về huyện Nậm Nhùn). Công trình này được xây dựng ở bậc thang trên cùng của dòng chính sông Đà, bậc trên của thủy điện Sơn La đang xây dựng. Công trình này có tổng mức đầu tư sơ bộ ước tính hơn 35700 tỷ đồng. Nhà máy Thủy điện Lai Châu gồm 3 tổ máy với tổng công suất lắp đặt 1.200 MW.
Đây là công trình thủy điện không những có vai trò quan trọng trong việc phát triển điện, cấp nước cho đồng bằng sông Hồng về mùa khô mà còn tạo cơ hội phát triển – kinh tế xã hội hai tỉnh Lai Châu và Điện Biên, đảm bảo an ninh quốc phòng khu vực Tây Bắc. Thủy điện Lai Châu thuộc bậc trên cùng của dòng sông Đà, giáp với biên giới Trung Quốc. Với thiết kế chọn cao trình đập 295 mét sẽ đảm bảo mực nước cách biên giới khoảng 15 – 20 km, nhưng khi nước dềnh hoặc có lũ, lụt thì chỉ cách biên giới khoảng 2 km.
Mường Tè
Thu Lũm
Nếu như ruộng bậc thang Hoàng Su Phì, Mù Cang Chải, Tú Lệ, Chế Cu Nha, La Pán Tẩn đã quá quen thuộc với dấu chân dân phượt thì khi nghe đến xã Thu Lũm, huyện Mường Tè, nhiều phượt thủ phải lắc đầu vì độ gian khó nhưng cũng rạo rực mơ ước được một lần đặt chân đến đó để chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên.
Nếu như đường lên Mường Tè làm cho ai nấy chân tay rã rời thì cung đường tiếp theo từ trung tâm huyện qua Nậm Củm, Pác Ma lên xã Thu Lũm lại còn gian nan hơn. Cung đường đất đỏ ngập hơn nửa mét sình nằm cheo leo bên bờ vực, phía dưới sâu là dòng sông Đà đỏ quạch cuồn cuộn chảy xiết, trên đầu thì những vách đá cao luôn chực lở. Sáu tiếng đồng hồ cho quãng đường chỉ vọn vẹn 76km hẳn đã phần nào cho thấy sự khốc liệt, hiểm trở của cung đường.
Đỉnh núi Pu Si Lung
Là ngọn núi hoang sơ, bí ẩn và quyến rũ bậc nhất Việt Nam, đỉnh Pu Si Lung huyền thoại nằm ở biên giới Việt Nam và Trung Quốc thuộc xã Pa Vệ Sử, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu với độ cao 3083m được mệnh danh là nóc nhà biên giới luôn là điểm đến trong mơ của các phượt thủ ưa khám phá.
Mốc 17 – Thượng nguồn Sông Đà
Sông Đà, còn gọi là sông Bờ hay Đà Giang là phụ lưu lớn nhất của sông Hồng. Sông bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc chảy theo hướng tây bắc – đông nam để rồi nhập với sông Hồng ở Phú Thọ.
Sông Đà dài 910 km (có tài liệu ghi 983 km), diện tích lưu vực là 52.900 km². Ở Trung Quốc, sông có tên là Lý Tiên Giang, do hai nhánh Bả Biên Giang và A Mặc Giang hợp thành. Đoạn ở Việt Nam dài 527 km (có tài liệu ghi 543 km). Điểm đầu là biên giới Việt Nam – Trung Quốc tại huyện Mường Tè (Lai Châu). Sông Đà chảy vào Việt Nam tại mốc 17, nơi con suối Nậm Náp chảy vào Sông Đà. Mốc 17 gồm 3 mốc là 17(1), 17(2) của Việt Nam và 17(3) của Trung Quốc. Đường phân thủy giao cắt của 3 mốc này tại cửa suối Nậm Náp chính là nơi sông Đà chảy vào đất Việt.
Đá thiêng Hà Nhì
A Pó Ủ Phú nghĩa là Ông già đá trắng, hay còn gọi là Thánh thạch đã có ở địa bàn từ rất lâu, từ khi xã được hình thành. Người Hà Nhì nơi đây coi đó là biểu tượng của niềm tin để cầu mong những điều may mắn, hạnh phúc cho dân bản. Hàng năm, lễ cũng “thánh thạch” là lễ hội được đón đợi nhất của người Hà Nhì nơi đây. Đây cũng là một nét văn hóa độc đáo của người Hà Nhì”.
” Ngày trước, cả vùng đất Tây Bắc này là rừng già bao phủ. Thú hoang nhiều vô kể, khi đó cả xã Thu Lũm mới có vài hộ dân. Đêm đến bà con phải đốt lửa ngồi quây quần bên nhau xua thú dữ. Chuyện đôi vợ chồng, họ đi cả đêm để vượt qua trăm suối ngàn khe. Khi họ đi đến một đỉnh núi thuộc nước Việt thì người vợ mới sực nhớ là quên mất chiếc khăn đội đầu ở nhà. Thế là người chồng phải ngồi đợi người vợ về lấy khăn. Người vợ về đến nhà quay lại chỗ chồng đợi thì gà đã gáy sáng nên không vượt qua được rừng già nữa. Người chồng đợi mãi, không thấy người vợ quay lại cho đến khi mình hóa đá lúc nào không hay. Chỗ người chồng đợi vợ vốn là hòn núi đất giờ tự nhiên lại mọc lên một ụ đá giống thế người chồng ngồi chống cằm mắt hướng về phương Nam. Từ đó cho đến nay người Hà Nhì coi nơi đó là mảnh đất thiêng”
Hàng năm, sau Tết Nguyên Đán bản Pa Thắng lại đứng ra tổ chức lễ Thánh thạch. Ông Chu Cà Xá B (người nắm rõ nhất truyền thuyết về Ông già đá trắng) được giao trách nhiệm đứng ra chọn ngày tốt rồi dẫn trai tráng trong bản lên đó. Phụ nữ tại bản không được phép lên nhưng phụ nữ đến từ nơi khác vẫn có thể lên thăm.
Các món ăn ngon và đặc sản Lai Châu
Lợn cắp nách
Cái tên lợn “cắp nách” (một số nơi gọi là lợn lửng) là loại lợn đặc sản chỉ có ở vùng cao. Mỗi con chừng 10-15kg, con nào to cũng chỉ khoảng 20kg. Ăn thịt lợn “cắp nách” chẳng khác nào ăn thịt thú rừng mà không phạm pháp, bởi vì loài lợn này được thả vào trong rừng từ khi mới đẻ, tự kiếm ăn để sống.
Lợn “cắp nách” được ra đời từ thói quen chăn nuôi lạc hậu của bà con các dân tộc vùng cao như: Dao, Thái, Mông… Đây thực chất là giống lợn đặc trưng truyền thống chuyên thả rông chẳng phải nuôi dưỡng của đồng bào. Muốn có một đàn lợn “cắp nách” thì chỉ cần mua một đôi, gồm một con đực và một con cái, sau đó thả chúng vào khu rừng gần nhà mình. Đôi lợn đó sẽ luôn đi bên nhau, làm ổ trong rừng, tự kiếm ăn. Đến mùa sinh sản thì chúng giao phối và đẻ ra cả đàn lợn hàng chục con chỉ to hơn ngón chân cái.
Loài lợn này có sức chịu đựng rất giỏi, chúng tìm củ, rễ cây rừng nhai lá cây là có thể sống được. Lợn mới đẻ có thể chạy nhảy và kiếm ăn ngay được, chúng chỉ theo bố mẹ vài ngày rồi tự tách ra. Cả lũ lợn con đi kiếm ăn thành đàn đến khi nào trưởng thành, có thể sinh sản mới tự tách ra. Điều đặc biệt là loài lợn này tuy tự kiếm sống ở trong rừng, song chúng không bao giờ đi xa, chỉ quanh quẩn ở một khoảng cách nhất định. Có hộ thì tạo thói quen cho chúng tự về ổ do ông bà chủ làm sẵn ngay đằng sau nhà hay dưới gầm sàn. Còn những đàn lợn “ở ẩn” trong rừng thì chúng đã đánh dấu lãnh địa của mình. Muốn xem đàn lợn đã lớn chưa, người ta chỉ việc vào rừng tìm chúng hoặc ban đêm lần vào ổ của chúng để xem. Ổ được làm bằng những cành cây, lá cây khô. Muốn bắt chúng cũng rất dễ, người ta có những tiếng kêu đặc trưng để dụ chúng đến rồi bắt.
Chính vì không được nuôi dưỡng nên lợn lửng thuộc loại siêu chậm lớn, mỗi năm chúng chỉ tăng tối đa là 10kg, sau đó hầu như không tăng nữa. Chính vì ăn cỏ cây, lại chậm lớn nên thịt chúng rất thơm ngon, hầu như không có mỡ, miếng nào có một tý mỡ thì cũng không ngấy.
Thịt lợn trộn lá chua
Lá Chua ở rừng sẵn có quanh năm, mang về giã nhỏ, thêm ớt, hạt Dổi. Trộn đều với thịt lợn, ăn tuyệt ngon mà không bị ngán. Đây là món ngon của anh chị em đồng bào Thái Trắng ở Lai Châu.
Món cá nướng của người Thái
Từ xa xưa người Thái thường định cư ở các thung lũng, ven con sông, con suối nên cá và các loại thủy sản khác luôn là nguồn thực phẩm quan trọng không thể thiếu với đời sống hàng ngày. Chính vì vậy tục ngữ Thái đã có câu: “Cáy măn mọk má ha, Báu to pa pỉnh tộp ma sú” nghĩa là: ”Gà tơ tần đem đến, không bằng cá Pỉnh Tộp đem cho”. Bởi đối với đồng bào dân tộc Thái thì cá không chỉ đơn thuần mang lại giá trị dinh dưỡng mà còn là biểu tượng của sự no đủ, sung túc và hạnh phúc.
Để làm được món cá suối nướng ngon thơm, người ta phải chọn loại cá suối tươi, béo nếu là cá chép thì càng tốt. Cá được cạo sạch vảy, không mổ đường bụng mà phải mổ sống lưng để khi nướng, úp cá lên sẽ mềm, dễ gắp. Sau khi lấy mật thì rửa sạch rồi ướp, nhồi gia vị. Cá suối thường chỉ ăn rêu, lá cây và các động vật giáp xác. Nên chúng rất sạch, cá mổ ra hầu như không có mùi tanh. Gia vị để ướp cá gồm mắc khén, rau thơm rừng, hạt sen, lá húng, củ sả, ớt, xúp, mì chính… Sau khi làm sạch vẩy, cá được mổ từ lưng để vứt bỏ mật và ruột. Mổ kiểu này khó hơn, không cẩn thận sẽ bị đứt tay nhưng khi gập cá lại để nướng, cá sẽ dai hơn và không bị vỡ, tạo thành hình đẹp.
Sau khi mổ phanh lấy dao khứa chéo phần thân ngoài cá và tẩm các gia vị chừng 4 phút rồi gập ngang cá lại rau thơm và gia vị tiếp tục nhồi vào giữa, dùng thanh tre tươi kẹp chặt và hơ nướng trên than tro củi nóng chừng 15 phút thì cá chín. Nướng cá cũng cần có kỹ thuật, không được vội vàng mà dí sát xuống than làm cháy lớp ngoài mà lớp trong chưa kịp chín thơm, phải kiên trì hơ cho chín dần, chín đều. Khi gỡ cá ra khỏi xiên chỉ cần dung sợi chỉ vuốt dọc mình cá theo chiều gắp thì miếng thịt cá còn nguyên mà không bị vỡ.
Thưởng thức miếng cá nướng vàng rộm, thơm lừng với cơm nếp xôi dẻo ta mới thấy hết cái vị ngọt béo của cá, vị cay của quả ớt đầu sàn nhà mẹ, qủa Mắc khén ven bản, màu xanh của hành, của rau thơm lẫn màu đỏ của ớt, màu vàng của cá nướng – tất cả màu sắc của bức tranh thiên nhiên ấy đã đi vào bữa ăn cụ thể của đồng bào Thái giản dị mà ngẫu nhiên.
Cá bống vùi gio (tro)
Cá bống nơi đây thường được bắt ở các con sông, con suối, con cá bống nào to lắm mới bằng ngón tay trỏ của người lớn. Để có được món cá bống vùi gio ngon và đẹp mắt phải trải qua khá nhiều bước tiến hành kì công, đòi hỏi sự khéo léo và kinh nghiệm của người chế biến. Điều đó được thể hiện khi chọn nguyên liệu để chế biến như: Cá bống phải chọn con đều nhau, các loại gia vị sả, ớt, gừng, hạt tiêu, mắc khén … lá húng, và lá hom húng phải được băm nhỏ, lá dong phải là lá bánh tẻ, khổ to vừa không bị rách và rưả sạch để khô. Cá bống được sơ chế sạch sẽ và tẩm ướp với các gia vị đã được chuẩn bị sẵn. Sau khi ướp được chừng 15- 30 phút, chúng ta sẽ khéo léo gói gọn trong lá dong và được vùi vào trong tro nóng, khoảng 30 phút lại lật lại 1 lần, cứ như thế vài lần cá sẽ chín.
Khi thưởng thức món ăn ta sẽ nhận thấy mùi thơm đặc biệt của các gia vị núi rừng được pha trộn 1 cách hoàn hảo, vị ngậy mà không béo cuả cá, và mùi thơm nhè nhẹ của lá dong nướng. Món này vừa có thể là món nhắm rượu, vừa có thể là món ăn cùng cơm nóng hoặc xôi.
Xôi tím
Xôi tím được đôi bàn tay khéo léo của người phụ nữ Thái, Dáy… làm với những bí quyết riêng. Từ những hạt gạo nếp nương thơm dẻo, hạt to đều không lẫn tẻ, hương thơm ngọt, đem vo sạch rồi ngâm trong nước lã từ 6 – 8 giờ. Màu tím đặc trưng và hấp dẫn của xôi được nhuộm bằng loại cây có tên là Khẩu cắm (loại cây này chỉ có ở miền núi). Cây Khẩu cắm bẻ cả cành, lá rửa sạch, đem luộc. Luộc lá sôi chừng năm phút, khi thấy nước chuyển sang màu tím, sánh là được. Để nước lá nguội bớt rồi chút gạo nếp vào ngâm thêm 2 đến 3 giờ. Đồ xôi tím phải đồ bằng chõ gỗ được đục từ thân cây sung, lửa củi mới có được mùi vị thơm ngon hơn cả. Đồ đến khi hạt gạo chín nục, xới từng lớp xôi thấy màu tím tươi, bóng, hạt xôi dẻo mà không dính, có mùi thơm ngào ngạt là đã hoàn thành quy trình nấu xôi. Ngoài hương vị thơm ngon, ngậy mà không ngán, xôi tím còn hấp dẫn bởi màu sắc và chất của loại lá cây rừng. Theo kinh nghiệm của đồng bào dân tộc ở Lai Châu, cây Khẩu cắm dùng đồ xôi còn có tác dụng chữa bệnh đường ruột và bồi bổ sức khỏe rất tốt.
Nếu có dịp đến với các phiên chợ như chợ Dào San, chợ Sìn Hồ, hay chợ San Thàng… du khách sẽ ấn tượng với hình ảnh những cô gái dân tộc gùi những gùi xôi xuống chợ bán, quanh mình tỏa ra mùi thơm dẻo của gạo nếp nương và đặc biệt là màu tím đặc trưng vô cùng hấp dẫn. Thư thái ngồi bên bếp lửa thưởng thức xôi tím với cá nướng Pa pỉnh tộp hay miếng chả quế, thực khách sẽ cảm nhận được cả dư vị của núi rừng
Thịt lợn hun khói
Thịt lợn hun khói là một món ăn truyền thống của một số dân tộc vùng cao nói chung và người Pu Nả nói riêng. Thịt lợn hun khói không phải lúc nào cũng làm được, mùa nào cũng làm được mà làm thịt hun khói có mùa và phải làm đúng mùa, vì nếu làm trái mùa thịt sẽ bị ôi. Mùa làm thịt hun khói tốt nhất ngon nhất là mùa đông.
Khi mổ xong con lợn, người ta phanh con lợn ra, rồi lấy bộ lòng dội nước rửa sạch con lợn, không để một tý tiết còn dính vào thịt. Sau đó lấy dao dọc thịt lợn theo xương sườn thành miếng dài. Cứ mỗi xương sườn một miếng. Các miếng thịt dọc ra trước khi ướp không được dính nước lã và ướp ngay khi thịt còn nóng. Khi ướp xong cho vào chảo to hoặc chiếc thùng gỗ để ướp từ 5 đến 7 ngày mới bỏ ra để treo lên gác bếp sấy. Sấy đến khi nào thấy miếng thịt thật khô và mỡ bắt đầu chảy xuống là được. Các hương vị và gia vị để ướp thịt gồm có: Muối biển rang khô; Ớt quả khô; Thảo quả khô, nướng; Hạt tiêu rừng “Lậc cheo”; Quả mắc khén phơi khô, tất cả đều phải giã nhỏ.
Măng nộm hoa ban
Nếu ai đã có dịp ghé qua các bản làng người Thái ở Lai Châu sẽ không chỉ biết đến một truyền thuyết đầy cảm động về Hoa Ban – Măng Đắng mà còn được thưởng thức một món ăn có chứa đủ vị: đắng, chua, cay, mặn, ngọt, bùi của món Măng nộm hoa ban.
Măng có rất nhiều loại, loại nào cũng dùng làm nộm được nhưng ngon nhất thì có măng nứa và măng đắng. Măng đắng cần sắt nhỏ ngâm nước muối 30 phút sau đó luộc 2 lần rồi vớt ra để ráo, còn nếu là măng nứa đem luộc rồi tước nhỏ. Hoa ban cần chọn những bông tươi, ngắt lấy những cánh hoa dày để dùng. Tiếp theo cần chọn được một con cá suối tươi ngon, mình dày, đem nướng trên than củi, gỡ lấy thịt. Sau đó pha hỗn hợp nước trộn chanh, tỏi, ớt, rau húng và rau mùi đã thái nhỏ. Cuối cùng trộn nhẹ nhàng đều tay măng, hoa ban, cá và nước trộn. Tất cả hoà quyện tạo nên một hương vị đặc trưng của núi rừng, gắp từng miếng nộm du khách cảm nhận được vị đậm đà, thơm nồng của cá nướng, vị bùi bùi, ngầy ngậy của hoa ban, và vị đăng đắng của măng tươi.
Nộm rau dớn
Nộm rau dớn là món ăn đặc trưng của người Thái ở Lai Châu nói riêng và đồng bào Tây Bắc nói chung. Rau dớn người Thái gọi là “pắc cút”, loại cây thuộc họ quyết, giống như cây dương xỉ, thân to, tán lá rộng, mặt lá có màu xanh nhẵn. Loại cây này chỉ mọc ở bờ suối, khe suối, nơi có độ ẩm cao.
Để làm được món nộm rau dớn vừa ngon, vừa mang hương vị đặc trưng của dân tộc Thái, người ta thường chỉ hái những ngọn rau dớn cong non, là bánh tẻ, sau đó rửa sạch, phơi nắng cho tái. Tiếp đó cho rau dớn vào chõ xôi bằng gỗ để đồ, sau khoảng thời gian 20 phút. Để rau chín và giữ được màu xanh. Ở công đoạn này, nhất thiết rau dớn phải đồ chứ không nên luộc để giữ vị bùi bùi, ngọt ngọt của món nộm. Khi rau đã đồ chín, bỏ rau vào bát to, cho rau thơm, ớt, gừng, tỏi, nước chanh tươi, mì chính và muối trắng trộn đều. Để khoảng 5 phút cho ngấm gia vị, sau đó cho lạc rang giã nhỏ vào là có thể ăn ngay được. Món nộm rau dớn khi ăn sẽ cảm nhận được mùi thơm đặc trưng của các loại rau, vị bùi của rau dớn, vị chua ngọt xen lẫn một chút vị cay của ớt.
Món ăn từ rêu đá
Rêu đá được chế biến thành nhiều món ăn truyền thống của đồng bào Thái Tây Bắc và nó trở nên đặc biệt hơn trong mâm rượu hứa hôn của các đôi trai gái. Để có được những món rêu ngon đòi hỏi phải có sự kiên nhẫn, trước tiên cần vớt rêu cho vào rổ, giặt qua nước sạch nhằm loại bỏ cát và các chất bẩn, bỏ lên một tảng đá to, hoặc thớt rồi dùng một khúc gỗ to để đập, cứ làm như thế vài lần thì rêu mới sạch được như ý. Rêu đá khi đã qua sơ chế sẽ có màu xanh đậm, sờ vào mềm và mát. Qua những bước sơ chế cơ bản, rêu được chế biến thành nhiều món khác nhau như canh rêu đá, rêu nướng và rêu xào lá tỏi.
Rêu nộm thường lấy rêu non, cho vào chõ đồ xôi, đồ vừa chín tới, trộn cùng bột canh, mì chính và các gia vị, gừng, mùi, mắc khén, nếu thích ăn cay cho thêm quả ớt nướng giã nhỏ.
Để làm món rêu nướng, sau khi sơ chế và vắt hết nước, đem tẩm với các gia vị như sả, gừng, bột ớt, hạt dổi, quả muối, hạt sẻn…rồi được gói vào lá dong và vùi trong tro nóng, bên trên phủ một lớp than hồng. Khi vùi than cần phủ đều để giữ sao cho rêu chín đều mà không bị cháy. Đợi đến khi lớp lá bên ngoài chuyển thành màu đen thì người ta mới lấy ra rồi bóc từng lớp lá. Mùi thơm của gia vị cùng mùi nồng nồng của rêu đá tạo nên một hương vị rất riêng, trông giống như tảo biển, mềm, ngậy ăn với cơm nóng thì ngon tuyệt. Theo kinh nghiệm dân gian, ăn rêu đá vùi than thường xuyên giúp cơ thể lưu thông khí huyết, giải độc, giải nhiệt, hạ huyết áp và nhiều chứng bệnh mãn tính khác.
Trứng kiến
Nếu như trước đây, trứng kiến được người dân sử dụng như một thực phẩm để tăng thêm dưỡng chất, chống đói và thiếu thức ăn thì giờ đây những kinh nghiệm dân gian xưa được truyền lại, trứng kiến trở thành sản phẩm đắt giá và được những người sành ăn tìm kiếm. Trước đây, trứng kiến chỉ có trong mùa thu hoạch trứng kiến (đầu mùa xuân hoặc vào mùa mưa) thì nay trứng kiến được các nhà hàng bảo quản kỹ bằng cách xôi chín và để đóng đá, bất kể khi nào có khách đặt là làm rã đông và chế biến.
Đến các làng bản ở Lai Châu trong mùa mưa này, du khách có dịp thưởng thức đủ các món chế biến từ trứng kiến như: Trứng kiến ướp gia vị trong lá dong, lá chuối và nướng trên bếp than hồng, hoặc món trứng kiến đồ cùng xôi nếp nương, làm nộm với lá chua chát, nấu canh ngọt dịu… cùng với những món ăn khác món trứng kiến trở thành món ăn không thể thiếu ở các bản làng văn hóa vùng cao.
Bánh đen Sìn Hồ
Bánh đen được làm từ gạo nếp và cây màng tang, nhân bánh sử dụng thịt ba chỉ được trộn với thảo quả và mắc khén, tất cả được gói bằng lá mây.
Khâu nhục
Nếu có cơ hội ghé thăm bản người Nùng ở Tam Đường và được thưởng thức một bữa cơm với các món ăn truyền thống của dân tộc Nùng, chắc hẳn sẽ có món “khâu nhục”, một trong những món ăn hấp dẫn bậc nhất khiến bạn không thể quên.
Mặc dù có nguồn gốc từ Trung Hoa nhưng cùng với thời gian và đặc biệt là sự “Biến tấu” cho phù hợp với văn hóa ẩm thực của người Nùng, món khâu nhục đã mang được nét độc đáo rất riêng. Về cơ bản khâu nhục là hầm cách thủy thịt ba chỉ trong thời gian dài, nhưng cách chế biến khá phức tạp và nhiều công đoạn.
Canh tiết lá đắng
Ở Lai Châu có một đặc sản, đó là món canh tiết lá đắng. Phải thưởng thức món ăn này bạn mới có thể cảm nhận được nét độc đáo trong nghệ thuật ẩm thực của vùng đất này. Trước kia, khi món ăn này chưa phổ biến, để tìm được lá đắng về làm canh không phải đơn giản, bởi thứ cây này chỉ mọc ở nơi ven rừng, khe suối. Thường thì chỉ khi có khách quý, chủ nhà mới đi lên rừng tìm lá về nấu canh như một sự thể hiện lòng thân tình, mến khách. Bây giờ, bà con vùng này đã mang cây về trồng tại vườn nhà, trên nương, trên rẫy, bạn có thể mua được lá vào mỗi dịp chợ phiên.
Nguyên liệu và cách nấu canh lá đắng cũng thật đơn giản. Chỉ cần ít phổi lợn băm nhỏ, một miếng tiết và vài thứ rau thơm cùng với nắm lá đắng (có thể lá tươi hoặfc đã phơi khô) vò nát, sau đó đun nước sôi cho tất cả nguyên liệu vào nấu chín kỹ là bạn đã có một bát canh lá đắng thơm ngon để thưởng thức. Nếu ai lần đầu nếm món canh này sẽ cảm thấy khó ăn bởi vị đắng, chát tê đầu lưỡi, nhưng chính vị đắng đó lại đánh thức vị giác của bạn khiến bữa ăn ngon miệng hơn. Tiếp tục thưởng thức, canh lá đắng lại mang lại vị ngọt, bùi, thơm ngậy đến kỳ lạ. Không chỉ là một món ăn ngon, canh lá đắng còn có tác dụng giải rượu và chữa được bệnh về tiêu hóa.
Bánh dày người Mông
Theo quan niệm của người Mông bánh dày là biểu tượng của mặt trăng, mặt trời, tượng trưng cho sự sinh sôi, nảy nở của vũ trụ bao la. Bên cạnh đó chiếc bánh còn là biểu tượng của sự trong trắng, lòng chung thủy, son sắc của người phụ nữ Mông như một vòng tròn khép kín. Người Mông thường làm bánh dày vào dịp tết và các lễ hội. Dâng lên bàn thờ tổ tiên để bày tỏ lòng thành kính của mình, với ước mong các đấng linh thiêng phù hộ cho đôi chân to khỏe, để có thể vượt núi, chèo đèo, phát nương làm rẫy. Phù hộ cho mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Khi thưởng thức người ta cắt thành từng lát bánh, sau đó đem dán bằng mỡ lợn. Chiếc bánh được dán phồng lên, cũng là lúc mùi thơm của gạo nếp nương, hòa quyện mùi thơm dịu của trứng gà, mùi ngậy béo của mỡ lợn lan tảo khắp gian bếp nhỏ, tạo nên một món ăn vô cùng hấp dẫn.
Bánh chưng đen
Bánh chưng đen (Rùa Chía). Bánh chưng của người Dao gói tròn, dài khoảng 30cm, có thể dùng gạo nếp trắng hoặc nếp cẩm để gói, khi gói bánh chưng người ta thường trộn than cây màng tang giã nhỏ để có vị thơm ngon đặc sắc. Nhân bánh là dải thịt mỡ thái dài dính với bột thảo quả, để khi bánh chín mỡ ngấm đều vào bánh khi ăn có vị béo ngậy rất ngon miệng.
Lòng lợn nhồi gạo nếp
Món lòng lợn nhồi gạo nếp (tùng càng nhảng). Món này trộn tiết sống lẫn với thảo quả giã nhỏ, luộc chín tới vớt ra ăn ngay hoặc để ăn dần trong mấy ngày tết. Ở Sìn Hồ tiết trời xuân se se lạnh, món này để lâu cũng không bị hỏng. Khi ăn luộc chín lại cho nóng.
Dưa mèo
Dưa mèo là cách gọi thông thường của người dân ở Lai Châu về một loại dưa do người dân tộc Mông ở nơi “cuối trời Tây Bắc” này trồng, thu hái và đưa xuống chợ, ven đường bán “chơi” với giá 10.000 đồng/1kg. Bên ngoài và bên trong quả dưa mèo giống quả dưa chuột. Tuy nhiên quả dưa mèo to, dài hơn quả dưa chuột. Quả dưa mèo to nhất nặng đến hơn 1kg, quả nhỏ nhất cũng nặng tới chừng gần nửa cân. Vỏ quả trơn bóng, có màu xanh sáng xen lẫn những viền xanh mờ. Ruột quả màu trắng, cùi dày, nhiều hạt mềm…
Đặc sản Lai Châu mua về làm quà
Rượu ngô Sùng Phài
Rượu Mông kê (Rượu Sùng Phài) một đặc sản độc đáo, đậm đà bản sắc của đồng bào dân tộc người Mông Thuộc tỉnh Lai Châu. Rượu Mông Kê sản phẩn truyền thống chất lượng hảo hạng bởi: – 100% hạt ngô nếp được tuyển chọn và lên men bằng lá và hạt kê thuốc ( thực tế một loại hạt thuốc bắc nhìn giống hạt kê chuyên dùng để chữa trị xương khớp và đường tiêu hóa ) – Nguồn nước Sùng Phài, Lai Châu và phương thức bí truyền ngàn năm của đồng bào dân tộc người Mông tạo lên hương vị thơm ngon, êm dịu đặc trưng vô cùng khó quên của rượu Mông kê. – Quy trình sản xuất từ khâu chọn giống ngô, nguồn nước, quá trình ủ lên men và trưng cất đều đảm bảo tuân thủ chặt chẽ theo nguyên tắc truyền thống bí truyền. – Sau khi được chưng cất, rượu được khử, lọc loại bỏ andehit, độc tố và các loại tạp chất trên dây truyền hiện đại sau đó hạ thổ từ 2 năm trở lên. – Vì vậy uống rượu Mông kê có tác dụng kích thích tiêu hóa ăn ngon miệng, bồi bỏ xương khớp và lưu thông khí huyết. – Uống rượu Mông Kê không gây phản ứng đau đầu,không gây mệt mỏi sau khi uống, đặc biệt phù hợp với các bưa ăn, tiệc liên hoan có nhiều thức ăn chứa nhiều đạm và chất béo như các đồ hải sản, thịt chó, đồ lẩu, đồ nướng…
Hạt dổi
Được xem như là đặc sản của vùng núi cao Tây Bắc nói chung và Lai Châu nói riêng, hạt dổi rừng là một trong những loại gia vị đặc biệt thơm ngon và quý hiếm của người dân vùng cao. Dổi là loại cây thân gỗ, mọc thẳng đứng ưa ánh sáng, rất ít cành và là cây lâu năm. Có nhiều loại, loại chỉ lấy gỗ làm nhà thường được gọi là dổi tẻ có hạt rất cứng và mùi hắc không ăn được, còn loại mà cho hạt thơm là dổi nếp hay được bà con vùng dân tộc dùng làm gia vị thì ít và hiếm hơn.
Quả óc chó Sìn Hồ
Hạt óc chó vốn được biết đến là thần dược cho não. Óc chó Sìn Hồ quả không được đều tăm tắp như của Trung Quốc, nhiều hạt do quá trình phơi chưa làm sạch được hết vẫn còn dính chút thịt quả nhưng mà chất lượng hạt thì khá bùi và ngậy.
Rượu nếp than
Rượu nếp than hay còn có cái tên khác: “rượu nếp cẩm” là một đồ uống quen thuộc của người dân Tây Bắc nói chung và người Lai Châu nói riêng. Đây là loại rượu độc đáo không cần chưng cất mà chỉ ủ. Bên cạnh đó rượu nếp than còn là bài thuốc chữa bệnh, giúp tăng cường sức đề kháng và làm đẹp da.
Mật ong Mường Tè
Mật ong Mường Tè là sản vật đặc trưng, hiếm có ở Lai Châu được khai thác trong những khu rừng thuộc khu bảo tồn Thiên nhiên Mường Tè. Mật ong Mường Tè có mùi thơm tự nhiên đặc biệt khác so với các loại mật ong khác. Mùa vào rừng lấy mật ở Mường Tè thường diễn ra từ tháng 3-10 hàng năm
Lịch trình du lịch Lai Châu
Với những thông tin ở trên, chắc các bạn cũng đã có những thông tin cơ bản về du lịch Lai Châu và lựa chọn cho riêng mình những kế hoạch để đến với vùng đất này. Cùng Phượt xin gợi ý cho các bạn một số lịch trình cơ bản để kết hợp du lịch Lai Châu với những vùng khác.
Sapa – Lai Châu – Sìn Hồ – Phong Thổ
Ngày 0 : Hà Nội – Sapa
Đi tàu hoặc xe khách giường nằm từ Hà Nội lên Sapa, bạn có thể lựa chọn mang xe máy từ Hà Nội hoặc lên đến Sapa thì thuê xe tại Sa Pa để di chuyển tiếp sang Lai Châu.
Ngày 1 : Sapa – Tp Lai Châu – Phong Thổ (120km)
Chạy xe máy từ Sapa đi theo quốc lộ 4D đi Lai Châu, trên đường đi có thể tham quan một số địa điểm như Thác Bạc, Đèo Ô Quý Hồ
Tới Thị xã Lai Châu có thể đi thăm một số bản du lịch cộng đồng, thăm quần thể hang Pu Sam Cáp. Qua Thị trấn Tam Đường vào tham quan thác Tác Tình
Đi dọc quốc lộ 4D đến Thị trấn Phong Thổ thì chuyển sang Quốc lộ 12 lên cửa khẩu Ma Lù Thàng, xin phép Biên phòng để tham quan cụm mốc từ 64 – 66 ở khu vực xã Ma Ly Pho
Tối quay về ngủ tại Thị trấn Phong Thổ
Ngày 2 : Phong Thổ – Sìn Hồ
Từ Thị trấn Phong Thổ đi theo quốc lộ 12 về Sìn Hồ. Qua khu vực xã Nậm Ban và Pa Tần của Sìn Hồ có thể liên hệ với đồn biên phòng gần nhất để hỏi đường tham quan các cột mốc từ 51-54 (nếu có thời gian)
Tắm thuốc người Dao và nghỉ ngơi 1 đêm tại Sìn Hồ
Ngày 3 : Sìn Hồ – Lai Châu – Sapa – Hà Nội
Từ Sìn Hồ đi ngược về Tp Lai Châu, tiếp tục qua đèo Ô Quy Hồ về Sapa, dạo chơi quanh Sapa. Trả xe máy rồi lên ô tô hoặc tàu hỏa về Hà Nội
Hà Nội – Điện Biên – A Pa Chải – Mường Lay – Sìn Hồ – Mù Cang Chải/Sapa
Ngày 0 : Hà Nội – Điện Biên
– Đi xe giường nằm từ Hà Nội lên Điện Biên
– Gửi xe máy theo ô tô
Ngày 1 : Điện Biên – Mường Chà – Mường Nhé – Đồn 317
– Sáng sớm có mặt ở Điện Biên.
– Thăm quan một số điểm du lịch như Hầm Đờ Cát, Đồi A1, Nghĩa trang đồi A1 trong khoảng 1 tiếng.
– Đi thẳng từ Điện Biên vào Mường Nhé (200km)
– Có thể lựa chọn nghỉ ngơi tại Mường Nhé (nếu đi vào các dịp lễ đông như 30-4) hoặc vào thẳng đồn 317 ngủ.
Ngày 2 : Đồn 317 – Mốc 0 – Đồn 317 – Mường Nhé
– 8h sáng dậy ăn sáng, chuẩn bị đồ mang theo dọc đường và đồ ăn trưa để leo mốc
– Khoảng 10h tới mốc 0, dừng chụp ảnh và ăn trưa. Thời gian tùy thuộc vào khả năng leo núi của từng đoàn
– 11h từ mốc 0 trở về, khoảng 12h-13h sẽ về tới đồn 317
– Thu dọn đồ đạc và chạy ngược ra Mường Nhé rồi đi tiếp về Mường Lay nghỉ ngơi.
Ngày 3 : Mường Lay – Sìn Hồ
– Đến khu vực xã Chăn Nưa thì rẽ theo TL 128 đi Sìn Hồ
– Tối nghỉ ngơi tại Sìn Hồ
– Đừng quên đi tắm lá thuốc để xóa tan mệt mỏi mấy ngày vừa qua. Tối nghỉ ngơi tại Sìn Hồ
Ngày 4 (Lựa chọn 1) : Sìn Hồ – Lai Châu – Tam Đường – Bình Lư – Mù Cang Chải (Thích hợp nếu đi vào mùa lúa chín)
– Sáng dây có thể đi chơi chợ Sìn Hồ nếu đúng ngày chợ họp, lên Đài tưởng niệm chụp ảnh toàn cảnh Sìn Hồ
– Từ Sìn Hồ đi về Thị xã Lai Châu, qua Tam Đường tới ngã 3 Bình Lư thì rẽ đi Than Uyên -> Mù Cang Chải. Nếu thời tiết đẹp thì sẽ được ngắm mây Sìn Hồ.
– Nếu về sớm có thể tranh thủ đi chơi quanh Mù Cang Chải
– Tối ngủ và ăn uống tại Mù Cang Chải
Ngày 4 (Lựa chọn 2) : Sìn Hồ – Lai Châu – Tam Đường – Bình Lư – Sapa
– Sáng dây có thể đi chơi chợ Sìn Hồ nếu đúng ngày chợ họp
– Từ Sìn Hồ đi về Thị xã Lai Châu, qua Tam Đường tới ngã 3 Bình Lư thì rẽ đi đèo Ô Quy Hồ -> Thị trấn Sapa
– Tối nghỉ ngơi và chơi tại Sapa
Ngày 5 (Lựa chọn 1) : Mù Cang Chải – Tú Lệ – Nghĩa Lộ – Hà Nội
– Phương án 1 : Dạo chơi Thị trấn Mù Cang Chải, rồi về Tú Lệ ăn trưa sau đó chạy thẳng về Hà Nội
– Phương án 2 : Dành nguyên 1 ngày để chơi ở Mù Cang Chải, La Pán Tẩn, Chế Cu Nha, Đèo Khau Phạ rồi nửa đêm gửi người và xe máy theo xe khách Lai Châu về Hà Nội
Ngày 5 (Lựa chọn 2) : Sapa – Hà Nội
– Dành trọn 1 ngày để du lịch Sapa kết hợp với nghỉ ngơi lấy sức
– Tối gửi người + xe máy về Hà Nội bằng tàu hỏa hoặc ô tô
Sáng ngày 6 có mặt tại Hà Nội
Tìm trên Google:
- kinh nghiệm du lịch Lai Châu 2024
- tháng 11 Lai Châu có gì đẹp
- review Lai Châu
- hướng dẫn đi Lai Châu tự túc
- ăn gì ở Lai Châu
- phượt Lai Châu bằng xe máy
- Lai Châu ở đâu
- đường đi tới Lai Châu
- chơi gì ở Lai Châu
- đi Lai Châu mùa nào đẹp
- địa điểm chụp ảnh đẹp Lai Châu
- du lịch Lai Châu tháng 11
- homestay giá rẻ Lai Châu